Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 63
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang, Trịnh Lộc
và Đức Phong
Tập 125
“Hựu Trí Độ Luận viết:
‘Tùng Thủ Lăng Nghiêm tam-muội năi chí Hư Không Tế Vô
Sở Trước Giải Thoát tam-muội, hựu như
Kiến Nhất Thiết Phật tam-muội, năi chí Nhất
Thiết Như Lai Giải Thoát Tu Quán Sư Tử Tần
Thân đẳng, vô lượng A-tăng-kỳ Bồ Tát
tam-muội’. Như thị đẳng chư tam-muội vô
bất cụ túc, cố vân cụ túc thành tựu bách thiên
tam-muội” (Lại nữa, Trí Độ Luận chép: “Từ
Thủ Lăng Nghiêm tam-muội cho đến Hư Không Tế
Vô Sở Trước Giải Thoát tam-muội, lại như
Kiến Nhất Thiết Phật tam-muội, cho đến
Nhất Thiết Như Lai Giải Thoát Tu Quán Sư Tử Tần
Thân v.v…, vô lượng A-tăng-kỳ tam-muội của hàng
Bồ Tát”. Các tam-muội như thế không ǵ chẳng đầy
đủ, nên nói là “thành tựu đầy đủ trăm
ngàn tam-muội”). Tam-muội (Samādhi) là tiếng
Phạn, tức là ngôn ngữ của Cổ Ấn Độ,
thường được dịch là Định, hoặc
dịch là Chánh Thọ, có nghĩa là Thiền Định.
Trong kinh có dịch thành một câu dễ hiểu hơn: “Thiện tâm nhất xứ trụ”,
cũng giống như trong kinh Di Giáo có nói: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (chế
ngự tâm trụ tại một chỗ, không ǵ chẳng hoàn
thành). Đó là ư nghĩa của hai chữ Tam Muội. V́ thế,
trong Phật pháp, bất luận Đại Thừa hay Tiểu
Thừa, chữ Định này được nói đến
nhiều nhất. Phàm điều ǵ được nói đến
nhiều nhất, nhất định là rất quan trọng.
Chẳng phải là rất quan trọng, cần ǵ phải rườm
lời? Thường xuyên nói, lúc nào cũng nói, chỗ nào cũng
nói, điều ấy rất quan trọng. Quả thật,
tam-muội là mấu chốt trong sự tu học Phật pháp.
Trong Tam Học Giới, Định, Huệ, tam-muội là Định.
Cớ sao có nhiều loại Định ngần ấy, trăm
ngàn tam-muội? Đó là các phương pháp tu Định khác
nhau, phương pháp vô lượng vô biên, nhưng mục đích
đều nhằm tu Định, đều mong thu cái tâm về
một chỗ.
Quư
vị thấy Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta
niệm Phật, chúng ta phải niệm như thế nào th́
mới có thể văng sanh Tịnh Độ? Lăo nhân gia dạy
chúng ta tám chữ “đô nhiếp
lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Quư vị
thấy đó có phải là tam-muội hay không? “Nhiếp trọn sáu căn” tức
là thâu hồi vọng niệm. Mắt thấy sắc liền
khởi phân biệt, chấp trước, tai nghe tiếng cũng
vậy, cho đến ư duyên pháp, không ǵ chẳng như vậy!
Tâm ấy là tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước,
rong ruổi theo bên ngoài. Nay chúng ta muốn tu hành, ắt phải
thâu hồi cái tâm lại, thâu hồi mắt từ Sắc Trần,
thâu hồi tai từ Thanh Trần. Thật ra, Mạnh phu tử
cũng đă từng nói, trong thời đại Mạnh Tử,
Phật giáo chưa truyền đến Trung Quốc, nhưng
Mạnh Tử đă từng nói: “Học
vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”
(đạo học vấn chẳng có ǵ khác, chỉ cầu
sao thâu hồi cái tâm buông lung mà thôi), cũng mang ư nghĩa này.
[Ngài nói] đạo lư trong sự học vấn chẳng có
ǵ khác, chỉ là thâu hồi cái tâm, do tâm quư vị buông lung
theo bên ngoài. Nhà Phật nói “sáu thức nơi sáu căn rong
ruổi bên ngoài, hăy thâu hồi chúng”, Mạnh Tử gọi
chuyện đó là “cầu kỳ
phóng tâm nhi dĩ”. Đại Thế Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”, tâm liền thanh tịnh, mắt
không duyên sắc, tai không duyên thanh, lục căn chẳng
phan duyên bên ngoài, tâm liền định, đó là tịnh niệm.
Phải
giữ ǵn cho tịnh niệm tiếp nối, chớ để
cho nó đoạn dứt. Chúng ta biết ư niệm là niệm
trước diệt, niệm sau liền sanh. Niệm niệm
đều là tịnh niệm th́ sẽ thành công. Chúng ta dùng phương
pháp ǵ? Dùng tŕ danh niệm Phật, đó là một loại phương
pháp trong vô lượng pháp môn. Trong Tịnh Độ Tông,
tuy đức Phật cũng dạy rất nhiều phương
pháp niệm Phật, nhưng phân chia tổng quát th́ có bốn
loại như Thập Lục Quán Kinh đă nói: Thật Tướng
Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng
Niệm Phật, Tŕ Danh Niệm Phật, có bốn loại ấy.
Trong bốn loại lớn đó, mỗi loại c̣n có thể
chia ra thành rất nhiều loại. Chúng ta dùng chấp tŕ danh
hiệu [là phương pháp mà] kinh Vô Lượng Thọ và kinh
Di Đà đều nói, trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế
Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” là nói đến
Tŕ Danh Niệm Phật. Nói cách khác, giữ cho tâm chúng ta định
trong câu Phật hiệu, khiến cho câu Phật hiệu niệm
niệm tiếp nối, đó là Niệm Phật tam-muội.
Kinh luận Tịnh Tông lại nói “Niệm Phật tam-muội, tam-muội trung vương”
(Niệm Phật là vua trong các tam-muội), câu này rất quan
trọng. Ở đây, cụ Niệm Tổ dùng Trí Độ
Luận để nói, trong Trí Độ Luận nói “bách bát tam-muội”, tức là
nói đến một trăm lẻ tám loại, đều là
nói quy nạp. Một trăm lẻ tám loại triển khai
sẽ thành trăm ngàn tam-muội, vô lượng tam-muội,
có ư nghĩa này.
Cụ
nhắc đến Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, [chúng ta]
thấy chữ Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṅgama) liền nghĩ tới Đại
Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Thủ Lăng
Nghiêm là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Kiện Tướng (健相), Kiện
là chữ Kiện trong Kiện Khang (健康), Tướng
là chữ Tướng trong Pháp Tướng (法相), đó là nói Phật đức kiên cố. “Phật đức” là đức
tướng vốn sẵn có trong tự
tánh, v́ sao nói là kiên cố? Hết thảy tà ma đều chẳng
thể phá hoại. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Tà chẳng thắng chánh”, tự tánh vốn trọn đủ
chánh pháp. Nhất Thiết Sự Thành Tựu (hết thảy
các sự đều thành tựu) cũng là ư nghĩa được
giảng trong kinh Lăng Nghiêm, h́nh dung Phật đức rốt
ráo, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian không
có ǵ chẳng thể thành tựu. Không chỉ là thành tựu,
mà trước đó c̣n có ư nghĩa kiên cố, tức là “kiên cố thành tựu”, đó
là những ư nghĩa được bao hàm trong danh từ Thủ
Lăng Nghiêm. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có một
đoạn như thế này: “Bồ
Tát đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, năng dĩ
tam thiên đại thiên thế giới nhập giới tử
trung” (Bồ Tát đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội,
có thể bỏ tam thiên đại thiên thế giới vào
trong hạt cải). Giới tử (芥子) là hạt
cải; đại khái, hạt cải to chừng bằng hạt
mè. Tam thiên đại thiên thế giới nhét vào hạt cải,
hạt cải chẳng ph́nh to, tam thiên đại thiên thế
giới chẳng rút nhỏ. Mặt trời, mặt trăng,
tinh tú, núi, sông, đại địa trong tam thiên đại
thiên thế giới vẫn vận hành y như cũ, chẳng
có mảy may trở ngại nào; đó là ư nghĩa “tự tánh lớn - nhỏ bất
nhị”. Trong tự tánh chẳng có lớn hay nhỏ, cũng
có thể nói là “trong tự tánh chưa hề có đối lập”.
Nó chẳng có thời gian, chẳng có thời gian là chẳng
có trước - sau. Nó chẳng có không gian, chẳng có không gian
là chẳng có lớn, nhỏ, chẳng có xa, gần. Đó là
Tánh Đức trong tự tánh, thành tựu hết thảy kiên
cố chẳng thể nghĩ bàn! Bồ Tát biểu diễn
điều ấy cho bọn chúng sanh chúng ta trông thấy,
khiến cho chúng sanh hiểu tự tánh vốn định,
có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như thế.
Cho
đến “Hư Không Tế Vô
Sở Trước Giải Thoát tam-muội”, loại này dễ hiểu. Hư không là pháp
giới, vô lượng, vô biên, vô số, vô tận. Cổ
nhân Trung Quốc có hai câu để h́nh dung nó, tức là “đại nhi vô ngoại”, quư
vị nói nó là lớn th́ lớn như thế nào? Chẳng
có ǵ ở ngoài nó. Cũng có nghĩa là nó chẳng có ngằn
mé, thật sự lớn. Nhỏ th́ nhỏ như thế
nào? “Tiểu nhi vô nội” (nhỏ nhưng chẳng ở
trong). Cổ thánh tiên hiền nói hai câu ấy chẳng phải
là sau khi Phật giáo đă truyền đến Trung Quốc,
có ư nghĩa hoàn toàn giống với cảnh giới trong
tam-muội. Phật giáo chưa truyền đến Trung Quốc,
cổ thánh tiên hiền, tổ tiên đă nói ra cảnh giới
chẳng khác chư Phật Như Lai; há quư vị có thể
nói những người ấy chẳng phải là Phật,
Bồ Tát tái lai ư? Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, học
Hoàn Nguyên Quán, những mối nghi hoặc ấy chẳng c̣n
nữa, biết chư Phật, Bồ Tát hiện thân trong khắp
pháp giới hư không giới, cảm ứng đạo
giao cùng hết thảy chúng sanh, hiện thân thuyết pháp.
Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Thuận
theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng nhận lănh của
họ”. Chúng sanh mong Phật hiện thân ǵ, Phật liền
hiện thân ấy. Phật tùy thuận chúng sanh, trước
nay chưa hề có ư nghĩ của riêng ḿnh. Xét theo hoàn cảnh
của Trung Quốc, người Hoa hết sức tôn trọng
thánh hiền, Ngài liền hiện thân thánh hiền. Người
Ấn Độ ngưỡng mộ Phật Đà, Ngài liền
hiện làm thân Phật, hay thân Bồ Tát. Cho đến ở
phương Tây, họ sùng kính Thượng Đế, liền
hiện thân Thượng Đế. Đối với kẻ
ngưỡng mộ Ma Tây (Moses) hoặc Gia Tô (Jesus), liền
hiện thân Ma Tây hoặc Gia Tô, không ǵ chẳng tự tại.
Năm xưa, tôi sang thăm Nhật Bản, đến thăm
một vị lăo ḥa thượng người Nhật là cụ
Trung Thôn Khang Long (Nakamura Kōryū)[1].
Lúc
tôi đến thăm, cụ đă một trăm tuổi. Cụ
biết tôi [làm công tác] đoàn kết tôn giáo, thực hiện
công tác “tôn giáo trên thế giới là một nhà”, nên rất
hoan hỷ. Chúng tôi gặp mặt, cụ bảo tôi: “Tất cả những vị
sáng lập tôn giáo trên toàn thể thế giới đều
là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát”. Quán Thế Âm Bồ
Tát có ba mươi hai ứng thân, nên dùng thân ǵ đắc độ
bèn hiện thân ấy. Chúng tôi nghe nói hết sức hoan hỷ,
vị lăo ḥa thượng này chẳng đơn giản!
Khi tôi chia tay, đồ đệ của cụ tiễn tôi
đến tận cổng chùa, bảo tôi: “Lời ḥa thượng nói hôm nay, dường như
cả đời từ trước đến nay, chưa
hề nghe Ngài nói như vậy”. Tất cả những
vị sáng lập tôn giáo đều là hóa thân của Quán Thế
Âm Bồ Tát, chưa hề nghe nói! Đúng vậy, chẳng
giả! Người b́nh phàm cũng chẳng thể thốt
ra câu ấy! V́ vậy, người thật sự buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, trở
về “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, tâm đạt được
thanh tịnh, tâm đạt được b́nh đẳng,
tâm đạt được giác, giác là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là Giải Thoát
tam-muội.
Kế
đó là“Kiến Nhất Thiết
Phật tam-muội”. Có thể nói người thật sự
đắc tam-muội, tam-muội có sâu hay cạn khác nhau,
thấy Phật, thấy hết thảy Phật, đây là
loại tam-muội thuộc cấp bậc nào? Cao hơn Bồ
Tát một bậc! Bồ Tát thấy Phật, nhưng chưa
thấy hết thảy Phật. Chúng ta thấy danh từ
Kiến Nhất Thiết Phật được kinh Vô Lượng
Thọ gọi là A Duy Việt Trí Bồ Tát, các Ngài đắc
Kiến Nhất Thiết Phật tam-muội. Tầng cấp
này là Pháp Thân Bồ Tát, nói theo kinh Hoa Nghiêm, địa vị
thấp nhất sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo,
hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo th́ mới đạt
được. Trong pháp Đại Thừa, những vị
ấy được gọi là “đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Thích Ca Mâu
Ni Phật thị hiện đại giác kiến tánh dưới
cội Bồ Đề thuộc về tầng cấp này.
Ở Trung Quốc, vào đời Đường, Thiền
Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư nghe ḥa thượng
Ngũ Tổ Nhẫn giảng kinh Kim Cang, nghe đến câu
“ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm) cũng
khế nhập cảnh giới này, Ngũ Tổ truyền y
bát cho Ngài. Đó là Kiến Nhất Thiết Phật tam-muội,
địa vị vượt ngoài mười pháp giới.
Nói cách khác, người trong mười pháp giới chẳng
đạt được. Trong mười pháp giới, cao
nhất là Phật pháp giới, vị Phật ấy có thể
thấy Phật hay không? Có thể thấy Phật, nhưng
chẳng thấy hết thảy chư Phật, chúng ta phải
biết điều này. A Duy Việt Trí Bồ Tát mới có thể
thấy hết thảy chư Phật. Cũng có nghĩa là
Pháp Thân Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, thuộc về địa vị này.
Chúng
ta biết địa vị này vô cùng khó đạt được,
nhưng nay chúng ta hết sức may mắn, gặp được
pháp môn thù thắng khôn sánh trong các pháp của chư Phật,
vượt trỗi tám vạn bốn ngàn pháp môn, tức là pháp
môn Niệm Phật của Tịnh Tông, hy hữu khó gặp.
Đă gặp gỡ mà có thể tín, có thể giải, có thể
hành, có thể chứng, chứng là ǵ? Văng sanh tức là chứng.
Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư
cũng là chứng. Sự chứng ấy cũng chẳng đơn
giản. Nguyện hai mươi trong bốn mươi tám
nguyện của kinh Vô Lượng Thọ do chính A Di Đà
Phật đă nói: “Phàm người
nào sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát”, tuyệt diệu
thay! Có phải thật sự là A Duy Việt Trí Bồ Tát? Nói
theo Lư th́ không thông, chẳng có lẽ ấy! V́ sao? Quư vị
đới nghiệp văng sanh, Kiến Tư phiền năo, Trần
Sa phiền năo, Vô Minh phiền năo đều chẳng phá, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới sanh vào cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. Nếu A Duy Việt Trí Bồ Tát sanh
về Tịnh Độ th́ trụ nơi đâu? Các Ngài trụ
trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng ở trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. A Di Đà Phật nói lời này chẳng
phải là nói hư giả, mà là nói thật. V́ sao có thể
gọi quư vị là A Duy Việt Trí? Do bổn nguyện và
oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ quư vị, chẳng
phải là trí huệ, thần thông, đạo lực của
chính quư vị. Phật Di Đà tăng thêm trí huệ, thần
thông, đạo lực cho quư vị, nên quư vị giống
như A Duy Việt Trí Bồ Tát. Do đó, thế giới Cực
Lạc là một thế giới b́nh đẳng, thật sự
b́nh đẳng. Thế giới ấy cũng có bốn cơi,
nhưng bốn cơi như nhau, bốn cơi b́nh đẳng! Điều
này chẳng thể nghĩ bàn, không có cách nào tưởng tượng
được! Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có bốn cơi, nhưng
bốn cơi chẳng ở cùng một chỗ! Nay chúng ta đang
sống trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni
Phật, thánh nhân trụ trong cơi Phương Tiện Hữu
Dư, chúng ta chẳng thấy bốn thánh pháp giới. Các
Ngài có thể thấy chúng ta, nhưng chúng ta chẳng thấy
các Ngài, cơi Thật Báo lại càng chẳng cần phải nói
nữa! Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
chúng ta văng sanh, chắc chắn sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, nhưng trong cơi Đồng Cư, nhưng chúng ta thấy
cơi Phương Tiện, và cũng thấy cơi Thật Báo, chẳng
tách biệt, chẳng có giới hạn!
Đây
thật sự là một nhân duyên hiếm có, khó gặp, chúng
ta chớ nên không biết. Đă biết th́ phải chịu
hướng về thế giới Cực Lạc. Thế
giới Cực Lạc chẳng khó đến, trong kinh Văng
Sanh, kinh Văng Sanh chính là kinh luận Tịnh Độ, tức
ba kinh, một luận, đều dạy: Nếu muốn văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ cần
đầy đủ ba điều kiện là Tín, Nguyện,
Hạnh. Quư vị tin tưởng, quyết định chẳng
hoài nghi, tín tâm kiên định. Thứ hai là phải có nguyện,
thật sự muốn văng sanh. Có thể văng sanh hay không? Tùy
thuộc quư vị có tín tâm hay không, có nguyện vọng ấy
hay không. Có tín tâm, có nguyện vọng, chẳng có ai không thể
đến đó! Hạnh là thật sự hành. Phương
pháp để hành là nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật.
Trong phẩm Tam Bối Văng Sanh của bộ kinh này, kinh văn
có nói “nhất hướng
chuyên niệm”, một phương hướng là Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Trong tâm phải thật sự
buông xuống, buông xuống sạch sành sanh, trong tâm chỉ
có một vị Phật là A Di Đà Phật. Phải niệm
đến cái mức độ nào? A Di Đà Phật chính là
tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật, cảnh giới ấy
được gọi là “nhất
tâm bất loạn”, không ai chẳng văng sanh! Công phu niệm
đến mức như vậy, văng sanh thế giới Cực
Lạc phẩm vị liền cao. Công phu chưa đến
[mức đó], vẫn được! Vẫn có thể văng
sanh, văng sanh như thế nào? Kinh luận đă nói rất rơ
ràng: Văng sanh thế giới Cực Lạc, mấu chốt
là một niệm cuối cùng trong lúc lâm chung, niệm ấy
là A Di Đà Phật bèn văng sanh. V́ lẽ đó, người
trong lục đạo, đầu thai trong một đường
nào th́ quư vị phải biết là do một niệm cuối
cùng [quyết định], một niệm ấy là mấu chốt.
Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng
chẳng ra ngoài lệ ấy, cũng do một niệm cuối
cùng. V́ thế, thật sự có người như thế
này: Suốt đời chưa hề tiếp xúc Phật pháp,
lúc lâm chung, gặp một người bạn niệm Phật,
dạy kẻ ấy niệm A Di Đà Phật văng sanh, kẻ
ấy nghe xong hoan hỷ, chẳng cự tuyệt, thật
sự tin tưởng, bèn niệm, thật sự văng sanh. Có
[trường hợp như vậy], thật sự có, nhưng
chẳng nhiều lắm. Chúng ta cũng chớ nên coi thường
người văng sanh kiểu ấy, v́ sao? Tối thiểu, người
ấy hội đủ ba điều kiện, ba điều
kiện ấy đều rất khó đạt được!
Điều kiện thứ nhất là khi lâm chung, đầu
óc sáng suốt, chẳng mê hoặc. Lâm chung mà đầu óc mê
hoặc, sẽ chẳng có một tí biện pháp nào cả!
Người ấy sáng suốt chính là phước báo, người
Hoa thường nói Ngũ Phước, đây là phước
cuối cùng, [tức là] khi lâm chung, ra đi trong sáng suốt,
tỉnh táo. Người mất như vậy, dẫu chẳng
học Phật, chẳng niệm Phật, chẳng cầu văng
sanh, khẳng định đều sanh lên trời. V́ sao? Người
ấy lâm chung tỉnh táo, sẽ tự có thể chọn lựa
đường nào [để sanh vào]. Trong lục đạo,
thù thắng nhất là thiên đạo, nhất định
chọn thiên đạo. Người đến lúc lâm chung
hễ mê hoặc, sẽ chẳng thể làm chủ, chính ḿnh
không thể làm chủ bèn lưu chuyển theo nghiệp, đáng
sợ lắm!
Trong
một đời này, nghiệp do chúng ta tạo tác có thiện
nghiệp, có ác nghiệp, nghiệp lực nào mạnh mẽ
sẽ lôi kéo, dẫn quư vị đi đầu thai trước.
Chúng ta biết trong một đời này là Thập Thiện,
sức tu thiện rất mạnh mẽ bèn là thiên đạo.
Sức Thập Thiện chẳng mạnh, nhưng vẫn có
thể, đại khái thuộc bậc trung, bèn là nhân đạo.
Trung Phẩm Thập Thiện là nhân đạo, Thượng
Phẩm Thập Thiện là thiên đạo. Chúng ta đối
chiếu khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác [của chính ḿnh] với Thập Thiện một phen, làm
được bao nhiêu? Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
chỉ nói đại cương, chẳng nói cặn kẽ.
Nói cặn kẽ là trong giới luật và kinh Tiểu Thừa.
Cổ nhân Trung Quốc từ giữa đời Đường
trở đi, trong Phật môn, hai chúng đệ tử bất
luận xuất gia hay tại gia, Căn Bản Giới đều
dùng Nho và Đạo làm cơ sở. Hơn một ngàn bảy
trăm năm qua, các đồng tu tại gia và xuất gia học
Phật có thành tựu hết sức khả quan, chứng minh
cổ thánh tiên hiền đă chọn lựa chánh xác. Hiện
thời, chúng tôi đề xướng dùng Đệ Tử
Quy của Nho gia và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của
Đạo gia làm cơ sở để y giáo tu hành, rồi
học Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ chẳng
khó. Đă đặt vững vàng ba căn bản, rễ sâu,
cội chắc, chúng ta mới có thể thành tựu. Ba căn
bản ấy là tất yếu, có ba căn bản ấy mới
là thiện nhân. Ba căn bản ấy đều làm được,
sẽ là “thiện nam tử, thiện
nữ nhân” như kinh đă nói. Chư vị phải biết
Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ các
vị thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ.
Nói cách khác, chẳng phải là bậc thượng thiện,
sẽ chẳng thể đến thế giới Cực Lạc.
A Di Đà Phật rất từ bi, mong tiếp độ quư
vị, nhưng người trong thế giới Cực Lạc
chẳng đồng ư, v́ quư vị bất thiện! Phải
hiểu rơ những đạo lư này, chẳng phải là niệm
Phật không linh, mà là do chúng ta không hội đủ điều
kiện!
Ta
có Tín, Nguyện, Hạnh, v́ sao vẫn chẳng thể văng sanh?
C̣n có điều kiện kèm theo, Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói rơ ràng: “Chẳng thể do
chút thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà sanh
về cơi ấy”. Chúng ta thiện căn ít ỏi, phước
đức ít ỏi, chẳng đến đó được!
Thiện căn và phước đức là ǵ? Thiện căn
là có thể tin, có thể hiểu, đó là thiện căn.
Phước đức là ǵ? Là có thể hành, có thể chứng.
Nói cách khác, người thật sự khăng khăng một
mực niệm A Di Đà Phật, người ấy có phước,
đại phước báo! Kẻ b́nh phàm chúng ta không biết,
tưởng phú quư trong thế gian này là phước báo, chẳng
phải vậy! Quư vị có thể hưởng phú quư trong thế
gian này bao nhiêu năm? Dẫu quư vị sống đến một
trăm tuổi, cũng là một cái khảy ngón tay liền
xong! V́ thế, chúng ta chớ nên không biết điều này.
Phước đă hưởng hết, trong đời này quư
vị có tiếp tục tu phước hay không? Nếu chẳng
thật sự tu phước, đời sau phước báo
kém đời này rất xa! Nếu trong khi hưởng phước
lại tạo mầm tội, cũng rất dễ dàng đọa
vào ba ác đạo, quư vị nói xem có đáng sợ lắm
hay chăng? Người ấy niệm Phật văng sanh, sanh
về thế giới Cực Lạc bèn là vô lượng thọ,
sanh về thế giới Cực Lạc làm A Duy Việt Trí
Bồ Tát, thấy hết thảy Phật, quư vị nói xem:
Ai có phước? Có thể niệm Phật sanh về thế
giới Cực Lạc là những bà già, ông lăo, cũng chẳng
biết chữ, nghèo túng. Người nghèo hèn, có thể nói là
trong xă hội chẳng có tài sản ǵ, mà cũng chẳng có
địa vị, đến thế giới Cực Lạc
để làm Phật, há có thể sánh bằng họ ư?
Những điều này đều là sự thật chân chánh,
Phật pháp chẳng nói những điều hư giả.
Chẳng gặp được tức là chẳng có duyên phận,
chẳng có cách nào hết!
Đối
với ba điều kiện “thiện căn, phước
đức, nhân duyên”, quư vị thấy chúng ta có nhân duyên, v́
chúng ta gặp gỡ [pháp môn này], được làm thân người,
gặp gỡ Phật pháp, gặp gỡ Đại Thừa,
gặp Tịnh Độ, duyên đầy đủ. Có thể
thành tựu hay không, tùy thuộc thiện căn và phước
đức của chính ḿnh. Ba điều kiện thảy đều
đầy đủ, chẳng có ai không thành tựu. Thiện
căn và phước đức tu trong đời quá khứ.
Quá khứ đă có cái nhân, dẫu chúng ta thiện căn và phước
đức chẳng đủ, nếu đời này duyên thù
thắng, rất dễ dàng bổ túc, đó gọi là “bổ tập” (học tập
bổ sung), đều có thể học tập bổ sung [thiện
căn và phước đức], duyên là nghe kinh, nghe pháp. Duyên
ấy thật ra chẳng nhiều. Hiện thời, người
giảng kinh giáo học ngày càng ít! Ngày một ít đi chẳng
phải là không có nguyên nhân, do hoàn cảnh sống hiện tại
của chúng ta tạo ra, chớ nên không biết điều
này. Giáo dục trong xă hội hiện thời do ai phụ trách,
nắm giữ? Chúng ta phải biết giáo dục trong xă hội
hiện đại do các phương tiện truyền thông,
TV, và Internet thao túng. Quư vị thấy trong xă hội hiện
thời, có ai không xem TV, người nào chẳng lướt
Internet? Nội dung trong Internet là ǵ? Bạo lực, t́nh dục,
giết, trộm, dâm, dối, dạy những chuyện ấy,
dạy đến nỗi mỗi người đều mê
hoặc, điên đảo, tâm bộp chộp, hời hợt.
Do vậy, giáo dục của thánh hiền chẳng thể dính
dáng, Phật, Bồ Tát đến dạy đều chẳng
có cách nào dạy v́ người ta chẳng thể tiếp
nhận! Họ phiền năo quá nặng, tham, sân, si, mạn, năm
món phiền năo, tham, sân, si, mạn, nghi, hoài nghi những thứ
của cổ thánh tiên hiền, chẳng có tâm thành kính. Ấn
Quang đại sư đă nói rất hay, đối với
giáo huấn của thánh hiền khẳng định là “một phần thành kính được
một phần lợi ích, hai phần thành kính được
hai phần lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Chẳng có tâm thành kính, Phật,
Bồ Tát đến dạy quư vị cũng chẳng đạt
được lợi ích.
Chúng
ta biết: Điều phổ biến là [người hiện
thời] chẳng có tâm tôn trọng sự giáo dục của
thánh hiền, chẳng để vào mắt, nên thánh giáo suy
vi, mà Phật giáo cũng suy vi! Đúng là rất ít người
trong đời quá khứ có thiện căn sâu dầy, có nguyện
lực, nương theo nguyện trở lại, phát nguyện
đến thế gian này để truyền thừa thánh
giáo. Quư vị thấy những người ít ỏi ấy
gặp nhiều nỗi gian nan! Nếu chúng ta có thể nh́n thấu
suốt chân tướng sự thật, liễu giải các
thứ nhân duyên, chúng ta mới biết quư tiếc cơ
duyên này, rất khó có! Chúng ta chẳng gặp một vị
thầy tốt chỉ dạy, làm sao biết trong sách cổ
có lắm thứ tốt đẹp ngần ấy? Nay mọi
người coi sách cổ như giấy lộn đáng thiêu
sạch, ngỡ những thứ ấy cũ kỹ, lỗi
thời, chẳng cần đến nữa, chẳng biết
bảo vật ở trong ấy. Phật pháp được
gọi là Pháp Bảo trong Tam Bảo, dùng danh từ này, hy vọng
thời thời khắc khắc nhắc nhở quư vị phải
coi trọng, chớ nên khinh dễ, bỏ luống qua! Đó
là cổ nhân dụng tâm khổ sở, người đời
sau nếu có thể hiểu thấu, hăy nghiêm túc phát nguyện
khéo học tập, thành tựu chính ḿnh, mà cũng giúp cho chánh
pháp tồn tại lâu dài, lợi lạc chúng sanh hữu t́nh,
hữu duyên. Đă thật sự giác ngộ, phải toàn tâm
toàn lực giúp đỡ thế hệ sau thành tựu, đạt
được một hai điều đều là thứ
quư báu, tức là Bảo trong Tam Bảo, đó cũng là chúng
ta gieo phước, duyên phận vô lượng vô biên phước
đức. Tích lũy đại đức, gieo đại
phước, thật sự nhận thức, thật sự
hiểu rơ, đă giác ngộ!
“Năi chí” (cho đến) có nghĩa
là tỉnh lược những điều ở giữa, v́
Trí Độ Luận nói một trăm lẻ tám môn [tam-muội],
ở đây chỉ nêu đại lược vài điều.
“Nhất Thiết Như Lai Giải
Thoát Tu Quán Sư Tử Tần Thân”, Sư Tử Tần
Thân là tỷ dụ, Sư Tử là vua các loài thú, Tần Thân
(頻呻) là sánh ví
Ngài tự tại, hết thảy chư Phật Như Lai đạt
được tam-muội này. Tu Quán là như trong Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ đại sư đă nói Ngũ
Chỉ, Lục Quán, nhập Ngũ Chỉ, khởi Lục
Quán. “Vô lượng A-tăng-kỳ
Bồ Tát tam-muội”, ở đây, chúng ta thấy không
chỉ là trăm ngàn, mà thật ra là vô lượng. Ngài
[Long Thọ trong Trí Độ Luận] c̣n thêm vào chữ A-tăng-kỳ,
tức là bao quát toàn bộ các phương pháp và đường
lối tu học của hết thảy Bồ Tát trong tận
hư không khắp pháp giới, chẳng bỏ sót điều
nào, có ư nghĩa này! “Như thị
đẳng chư tam-muội vô bất cụ túc” (các tam-muội
giống như thế không ǵ chẳng trọn đủ).
Chỉ cần kiến tánh liền trọn đủ, “cố vân cụ túc thành tựu bách
thiên tam-muội” (nên nói thành tựu đầy đủ
trăm ngàn tam-muội). Người niệm Phật chúng ta
coi minh tâm kiến tánh là chuyện sau khi đă văng sanh, đến
thế giới Cực Lạc lại tu, v́ trong thế gian
này có rất nhiều chướng duyên, rất khó thành tựu.
Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đầu
tiên là thọ mạng vô lượng; thứ hai là quư vị
gặp thiện tri thức thật sự. A Di Đà Phật
là thầy, gặp được đồng tham đạo
hữu thật sự tốt đẹp, tức là các vị
Đẳng Giác Bồ Tát. Kinh dạy: “Các vị thượng thiện nhân cùng nhóm họp một
chỗ”, cổ đại đức chú giải chữ
“thượng thiện” là nói
đến hàng Đẳng Giác Bồ Tát. Cao nhất trong các
vị thiện nhân là Đẳng Giác. Trong thế giới Cực
Lạc, Đẳng Giác Bồ Tát đông lắm! Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng cho chúng ta nghe bộ kinh này, đặc biệt
chỉ ra hàng tại gia cư sĩ chứng đắc địa
vị Đẳng Giác. Quư vị thấy nêu tên mười
sáu vị th́ hàng xuất gia chỉ nêu tên ba vị, đối
với hàng tại gia nêu tên mười sáu người. Điều
này cũng nhằm nói lên ư nghĩa: Pháp môn này thích hợp cho
hàng tại gia cư sĩ tu hành. Tại gia cư sĩ tu hành
chứng quả chẳng kém hàng xuất gia, phải biết
điều này! Phật pháp là pháp b́nh đẳng.
“Luận trung phục vân: Ư nhất
nhất tam-muội trung, đắc vô lượng đà-la-ni”
(Trong luận lại nói: “Trong mỗi một tam-muội, đắc
vô lượng đà-la-ni”). Câu này hết sức quan trọng!
Đà-la-ni dịch là Tổng Tŕ, [nghĩa là] bao gồm hết
thảy các pháp, nắm giữ hết thảy các nghĩa. Nói
theo cách hiện thời, đà-la-ni là nắm được
cương lănh. Người ấy đối với các kinh
luận do mười phương ba đời hết thảy
chư Phật Như Lai đă nói, những chỗ quan trọng
người ấy đều nắm được, nắm
vững toàn thể nguyên lư, nguyên tắc, và cương lănh.
Do đó, cổ nhân thường nói: “Một kinh thông”, thật sự thông hiểu bộ
kinh này, “hết thảy các kinh
đều thông”, [những kinh luận] quư vị chưa
từng học cũng thông suốt toàn bộ. Thông đạt
một pháp môn th́ môn nào cũng đều thông đạt, v́
sao? Kiến tánh; không chỉ là quư vị thông đạt Phật
pháp, mà tất cả hết thảy các pháp ngoài Phật pháp
đều thông đạt toàn bộ, tuyệt diệu chẳng
thể diễn tả được! Trong tôn giáo có một
câu ca ngợi Thượng Đế, ca ngợi Chúa là “toàn trí toàn năng”. Trong Phật
pháp, hai câu “không ǵ chẳng biết,
không ǵ chẳng thể” nhằm tán thán người minh tâm
kiến tánh. Bất cứ ai cũng đều có ngày minh tâm
kiến tánh, ngày ấy rốt cuộc là ngày nào, tùy thuộc
chính ḿnh quyết định! Quyền lực ấy chẳng
thuộc vào người khác, mà do chính ḿnh. Nếu chính ḿnh dũng
mănh, tinh tấn, nếu nói theo pháp môn Niệm Phật th́ có
thể đạt được trong một đời,
chẳng cần đến đời sau, một đời
có thể đạt được, một đời có
thể thành tựu. Nếu tu các pháp môn khác, sẽ khá khó khăn,
v́ sao? Các pháp môn khác nhất định phải đoạn
phiền năo th́ mới có thể chứng Bồ Đề. Pháp
môn Tịnh Tông chẳng cần đoạn phiền năo, chỉ
cần khuất phục, khống chế phiền năo. Phiền
năo chưa đoạn, nhưng nó chẳng khởi tác dụng
là được rồi, có thể văng sanh. Tôi vừa mới
nói, sau khi văng sanh, được bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị liền biến thành
A Duy Việt Trí, tuyệt vời lắm! Đắc A Duy Việt
Trí là đạt đến cấp bậc của những người
minh tâm kiến tánh, trí huệ, thần thông, đạo lực
đều bằng với họ. Nói cách khác, thật sự
vượt thoát mười pháp giới.
Tiếp
đó, sách viết: “Đà-la-ni tức
thị Tổng Tŕ. Thị cố kinh vân: Cụ túc tổng tŕ
bách thiên tam-muội” (Đà-la-ni chính là Tổng Tŕ. V́ thế,
kinh nói: “Đầy đủ tổng tŕ trăm ngàn tam-muội”).
Hai hôm nay, đồng học báo tin cho tôi biết có những
nơi đang lan truyền tin đồn pháp sư Tịnh Không
có thần thông, biết trước lúc mất. Tôi nói cho quư
vị biết: Những tin ấy là giả, chẳng thật!
Có những lời tôi nói bị lan truyền sai lạc, càng
truyền càng sai lạc! Nói đến “cụ túc tổng tŕ bách thiên tam-muội” (đầy
đủ tổng tŕ trăm ngàn tam-muội), chúng tôi nói rơ lời
này một chút. Thế giới hiện thời có tai nạn,
quư vị đều biết rơ hơn tôi, v́ quư vị xem TV,
đọc báo, mỗi ngày đều xem. Mọi người
biết tôi không xem TV, mà cũng chẳng đọc báo, những
tin tức tôi biết đều do một số đồng
học, đại đa số là những bài báo quan trọng
hạ tải (download) từ Internet đưa cho tôi xem, tôi
mới biết chuyện ǵ phát sanh. Không ai kể cho tôi biết
th́ đối với tôi mỗi ngày đều sống thái b́nh.
Quư vị hỏi tôi về thế giới này, rất tốt!
Chẳng có chuyện ǵ! Mỗi ngày thiên hạ thái b́nh, vô ưu,
vô năo. Kể cho tôi nghe những chuyện ấy, đối
với một người thật sự tu hành th́ chẳng
phải là chuyện xấu, mà là chuyện tốt. Trong Phật
pháp, đầu tiên là phải phá Biên Kiến, cái được
gọi là Biên Kiến chính là đối lập. Họa và phước
là nhị biên (hai bên). Trong Phật pháp, nhị biên là b́nh đẳng,
chẳng có đối lập. Chúng sanh và Phật b́nh đẳng,
chúng sanh và Phật bất nhị. Nói cách khác, sanh - tử bất
nhị, phàm - thánh bất nhị, cát - hung, họa - phước
cũng là bất nhị. Thật vậy, chẳng giả!
V́ thế, là họa hay phước do một niệm của
chính ḿnh, chẳng do cảnh giới bên ngoài, đều do một
niệm của chính ḿnh, một niệm giác là phước,
một niệm mê bèn là hung. Cát, hung, họa, phước do
giác hay mê quyết định.
Chúng
ta học Phật, nhất định phải giác. Nghe nói có
tai nạn, tâm chúng ta phải đề cao cảnh giác, nghiêm
túc học Phật, buông xuống vạn duyên, chuyên tu Tịnh
Độ. Tai nạn thuộc về cộng nghiệp, ta
trốn chẳng khỏi cộng nghiệp ấy, nhưng
ta cũng chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng hoảng loạn, hiểu rơ ràng, rành rẽ,
chẳng phải là đến thế giới Cực Lạc
sớm hơn ư? Chuyện tốt mà! Do đó, có người
nói tới cuốn phim 2012, tôi cũng đi xem. Tôi cũng từng
nói với các đồng học, chúng ta nhất định
phải hoàn thành công phu niệm Phật văng sanh Tịnh
Độ vào cuối năm 2012, đó là chuyện tốt. Nếu
chúng ta thuộc trong số đó, bèn văng sanh. Nếu chúng ta
chẳng thuộc trong số đó, phải phát tâm cứu
độ hết thảy chúng sanh khổ nạn, phải
giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui!
Chúng ta dùng phương thức ǵ để làm? Dùng giáo học.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài đă dạy
suốt một đời. Sau khi khai ngộ vào lúc ba mươi
tuổi, Ngài dạy đến lúc bảy mươi chín tuổi
bèn viên tịch. Kinh ghi chép đức Phật giảng kinh, dạy
học bốn mươi chín năm, chẳng gián đoạn!
Giúp chính ḿnh bằng dạy học v́ “giáo học tương trưởng” (dạy học
khiến cho chính ḿnh tốt đẹp hơn, tiến bộ
hơn), giúp người khác cũng bằng dạy học,
tự hành và hóa tha dùng cùng một phương pháp. V́ thế,
thân phận vai tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật là một vị
thầy, chúng ta phải nhận thức rơ ràng! Ngoài dạy
học ra, suốt đời Ngài chẳng làm chuyện ǵ khác,
chúng ta phải nên học tập lăo nhân gia điều này. Do
vậy, trọn chẳng phải là biết trước lúc
mất, mà là chúng ta có duyên phận như thế ấy. Hăy
nên biết: Hạn định kỳ hạn cầu chứng
th́ thời hạn ấy do chính chúng ta ước định,
trong khoảng thời gian ấy, chúng ta phải thực hiện
công phu tốt đẹp, cũng là thật sự triệt
để buông xuống, thật sự niệm Phật sao
cho tương ứng với Phật. Nói đơn giản
th́ công phu ấy là trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, trừ
A Di Đà Phật ra, điều ǵ cũng chẳng có. Niệm
đến công phu này, văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, trong trạng huống b́nh thường có
thể đi bất cứ lúc nào, muốn đi lúc nào bèn đi
lúc ấy, muốn trụ mấy năm cũng chẳng trở
ngại chút nào, v́ sao chúng ta không làm? Chẳng có mảy may lưu
luyến thế gian này! Ở trong thế gian này một ngày
bèn giúp đỡ chúng sanh, phục vụ họ một ngày.
Sự phục vụ ấy chính là dạy học. Dạy học
có thể giữ cho chính ḿnh chẳng đọa lạc, mà
cũng là bảo vệ chính ḿnh chẳng sanh vọng tưởng,
chẳng sanh phiền năo. Thật sự bảo vệ chính ḿnh,
mà cũng có thể lợi ích chúng sanh, quả là một phương
pháp tốt đẹp trọn vẹn đôi bề.
Chúng
ta lại xem tiếp đoạn dưới, “trụ thâm Thiền Định,
tất đổ vô lượng chư Phật” (trụ
trong Thiền Định sâu, ắt thấy vô lượng
chư Phật), Thiền Định sâu là tam-muội, “tất đổ vô lượng
chư Phật” là thấy hết thảy chư Phật.
“Trụ thâm Thiền Định
giả, an trụ ư thâm diệu chi Thiền Định.
Hội Sớ viết: - Thâm định giả, sở trụ
tam-muội vi thâm u huyền, phi Nhị Thừa cập
sơ tâm Bồ Tát sở năng vi” (“trụ trong Thiền
Định sâu” là an trụ trong Thiền Định sâu mầu.
Sách Hội Sớ nói: “Thâm định là an trụ trong tam-muội
vi diệu, sâu xa, u huyền, Nhị Thừa và Sơ Tâm Bồ
Tát chẳng thể làm được”). Nhị Thừa là A
La Hán và Bích Chi Phật, kinh Lăng Nghiêm nói họ trụ
trong tam-muội có tên là Cửu Thứ Đệ Định,
con số Chín do đâu mà có? Chín là từ Tứ Thiền Bát Định
mà có. Trong phần sau, [người đắc] Tứ Thiền
Bát Định được gọi là Sơ Tâm Bồ Tát.
Sơ phát tâm vẫn là phàm phu, chưa thoát khỏi lục đạo
luân hồi. Công phu tu Định của họ nông cạn,
gọi là Tứ Thiền Bát Định. Họ tu đến
Sơ Thiền, c̣n có năng lực sanh lên Sơ Thiền Thiên.
Tu đến Nhị Thiền, họ có thể sanh lên Nhị
Thiền Thiên. Do đó, đắc Tam Thiền, Tứ Thiền
[bèn sanh trong Tam Thiền Thiên, Tứ Thiền Thiên], lên cao hơn
nữa là Tứ Không Định trong Vô Sắc Giới Thiên.
V́ thế, Tứ Thiền hợp cùng Tứ Không Định
gọi là Bát Định. Tứ Thiền Bát Định trên
thực tế chỉ có Bát Định, trọn chẳng phải
là ngoài Tứ Thiền c̣n có Bát Định, chẳng phải
vậy, trong Bát Định đă bao gồm Tứ Thiền.
Những môn này là Thiền Định thế gian, v́ sao? Họ
chưa thoát ly lục đạo luân hồi. Môn cao nhất
trong Bát Định do Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thiên tu thành; đắc Định ấy, sức của Định
ấy rất mạnh, thời gian cũng rất dài, thời
gian họ nhập Định là tám vạn đại kiếp.
Địa cầu, tinh hệ, và Thái Dương Hệ thành,
trụ, hoại, không tám vạn bốn ngàn lần; một lần
thành, trụ, hoại, không là một đại kiếp. Quư
vị thấy thành, trụ, hoại, không, tám vạn lần
th́ công phu định lực của họ mới tiêu mất,
rất phi phàm! Chúng ta gọi những người ấy là
thánh nhân, tức là bậc đại thánh trong lục đạo.
Thế
nhưng, tám vạn đại kiếp th́ vẫn có thời
hạn. Thời hạn đă tới, họ đánh mất
công phu định lực, vẫn phải luân hồi, vẫn
phải lưu chuyển trong lục đạo, chẳng rốt
ráo! V́ thế, người thông minh lại vượt cao hơn,
tu Thiền Định sâu hơn, đến Đệ Cửu
Định. Đệ Cửu Định bèn vượt thoát
lục đạo luân hồi, chứng quả A La Hán, chứng
quả Bích Chi Phật. Công phu định lực của Bích
Chi Phật sâu hơn A La Hán một bậc, vượt thoát
lục đạo, nhưng chẳng vượt thoát mười
pháp giới, vẫn ở trong mười pháp giới. Trên Bích
Chi Phật là Bồ Tát, trên Bồ Tát là Phật, đó là tứ
thánh pháp giới, là cơi Phương Tiện Hữu Dư của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Tuy đă thành Phật trong mười pháp
giới, nhưng chưa kiến tánh, chư vị phải biết
điều này! Nếu vị ấy kiến tánh, [tức là]
minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng trụ trong mười pháp
giới, mười pháp giới chẳng c̣n, vị ấy
liền trụ trong Nhất Chân pháp giới. V́ thế, Thiên
Thai đại sư nói Phật trong mười pháp giới
được gọi là Tương Tự Tức Phật
trong Lục Tức Phật, rất giống Phật, nhưng
chưa phải là chân Phật, cần phải đoạn sạch
vô minh [th́ mới là Chân Phật]. Phật trong mười pháp
giới vẫn chưa đoạn vô minh; hễ vô minh đoạn
sạch bèn là Chân Phật, chẳng phải là giả Phật.
[Đối với Ngài], mười pháp giới chẳng c̣n
nữa, Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật
Báo của chư Phật Như Lai cũng là cơi Thật Báo
Trang Nghiêm của chính ḿnh, duy tâm sở hiện, nhưng chẳng
có duy thức sở biến! Mười pháp giới là duy thức
sở biến; trong Nhất Chân pháp giới chỉ có tâm hiện,
chẳng có thức biến, nên trong cảnh giới, hết
thảy đều bảo tŕ vĩnh hằng, con người
vô lượng thọ, hoa, cỏ, cây cối đều là vô
lượng thọ. Con người chẳng có sanh, lăo, bệnh,
tử; hoa, cỏ, cây cối cũng giống như thế.
Trong kinh, đức Phật thường nói mười pháp
giới chẳng thật, biến hóa trong từng sát-na. Hữu
t́nh động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, cây cối,
hoa, cỏ có sanh, trụ, dị, diệt, núi, sông, đại
địa có thành, trụ, hoại, không, đều chẳng
chân thường, mà là vô thường. Nhưng Nhất Chân pháp
giới là chân thường, v́ người trụ trong ấy
đă chuyển tám thức thành bốn trí, chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước, chẳng có khởi tâm động
niệm, nên hiện tướng là vĩnh hằng, bất
biến. Cái gọi là “sống
đời đời” được nói trong tôn giáo chính
là nói về nơi này, đó là thiên đường thật
sự, Phật pháp gọi nó là thế giới Cực Lạc,
mang ư nghĩa này!
Tiếp
đó, [sách Chú Giải] viết: “Hựu
Chân Giải viết: Đường dịch vân Nhất Thiết
Chủng thậm thâm Thiền Định” (Lại nữa,
sách Chân Giải nói: “Bản Đường dịch ghi là
‘Thiền Định Nhất Thiết Chủng rất sâu”).
Tiếp đó, có giải thích, “Nhất
Thiết Chủng giả, vị Nhất Thiết Chủng Trí,
toàn Lư chi Sự, cố vân thậm thâm” (Nhất Thiết
Chủng là Nhất Thiết Chủng Trí, toàn thể Lư là Sự,
nên nói là “rất sâu”). Giải thích chữ Nhất Thiết
Chủng: Nhất Thiết Chủng là Nhất Thiết Chủng
Trí. Đối với ư nghĩa của chữ Phật, chữ
Phật dịch từ tiếng Phạn của Ấn Độ,
tức Phật Đà Da (Buddhaya); trong từ ngữ này có hai
ư nghĩa chủ yếu, thứ nhất là ư nghĩa Giác, ư
nghĩa thứ hai là Trí. Trí là Thể, Giác là Dụng. Có Trí th́
mới có Giác. Chẳng có Trí bèn mê, chẳng giác. Trí có ba loại.
Loại thứ nhất là Nhất Thiết Trí, loại thứ
hai là Đạo Chủng Trí, loại thứ ba là Nhất Thiết
Chủng Trí. A La Hán và Bích Chi Phật chứng đắc Nhất
Thiết Trí, biết tất cả hết thảy hiện tượng
trong khắp pháp giới hư không giới đều là giả,
chẳng thật. Kinh Bát Nhă nói “phàm
những ǵ có tướng đều là hư vọng”. Nói
“vạn pháp đều là Không”,
đó là Nhất Thiết Trí, biết hết thảy vạn
pháp đều là “tướng có, tánh không”. A La Hán biết chuyện
này, nên A La Hán chẳng lưu luyến lục đạo, không
c̣n phân biệt, chấp trước, vượt thoát lục
đạo. Nhưng v́ sao có hết thảy các pháp mà các Ngài
không biết, A La Hán không biết, chỉ biết những
thứ ấy là giả. V́ sao Giả lại có thể hiện?
Các Ngài chẳng hiểu đạo lư này, Bồ Tát biết,
Bồ Tát cao hơn A La Hán. Cái biết của Bồ Tát
được gọi là Đạo Chủng Trí, Đạo
(道) là đạo lư, Chủng
(種) là hết thảy các pháp.
Các pháp do đạo lư nào phát sanh? V́ sao có? V́ sao có lục đạo?
V́ sao có mười pháp giới? V́ sao có nhân quả báo ứng?
A La Hán chẳng biết những đạo lư ấy. V́ thế,
trí huệ của Bồ Tát cao hơn A La Hán, Bồ Tát có Đạo
Chủng Trí. Phật chứng Nhất Thiết Chủng Trí,
Nhất Thiết là Nhất Thiết Trí, Chủng Trí là Đạo
Chủng Trí. Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí là
một, không hai, nhưng Bồ Tát vẫn tách nó thành hai, nên có
Thể và có Dụng. Nhất Thiết Trí là Thể, Đạo
Chủng Trí là khởi dụng. Bồ Tát c̣n có Thể và Dụng
[tách rời], chẳng biết Thể và Dụng là một, không
hai. Đạt đến địa vị Phật th́ mới
biết, thật sự hoàn toàn hiểu rơ: Tánh và tướng
như một, Sự - Lư bất nhị, vạn sự vạn
vật trong vũ trụ là một Thể, đó là Nhất
Thiết Chủng Trí do Phật chứng đắc, cũng
có nghĩa là người minh tâm kiến tánh chứng đắc
[trí này], biết hết thảy các pháp là một Thể. V́
thế, tâm họ b́nh đẳng, ḷng từ bi trọn khắp,
chẳng đối xử nồng hậu với kẻ này,
xử sự bạc bẽo với người khác, đấy
mới là đạt đến viên măn rốt ráo. Đó gọi
là “toàn Lư là Sự, toàn Sự là
Lư”, Lư và Sự là một, không hai, nên bảo là “thậm thâm”, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều chẳng
thể chứng đắc, chỉ có Phật mới có thể
chứng đắc.
“Cố tri thâm định, thật
thị Lư Định, phi cẩn Sự Định dă”
(do vậy biết thâm định thật sự là Lư Định,
chẳng phải chỉ là Sự Định). Nói đơn
giản, đối với hết thảy mọi người,
đối với hết thảy sự vật, Phật thật
sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng
phân biệt, không chấp trước, đó là “thành Phật”.
Hết thảy chúng sanh đều cùng có chuyện này, chẳng
có ǵ hiếm hoi, lạ lùng, nên trong kinh Đại Thừa, đức
Phật thường nói “hết
thảy chúng sanh vốn là Phật”, chỉ cần quư vị
buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước xuống, quư vị là Phật! Quư vị buông chấp
trước xuống, chẳng c̣n chấp trước hết
thảy người, sự, vật nữa, quư vị là A La
Hán, liền chứng đắc A La Hán, vượt thoát lục
đạo. Do nguyên nhân nào mà có lục đạo? Do chấp
trước mà có! Chẳng có chấp trước nữa, bèn
chẳng có lục đạo. Chẳng có phân biệt, không phân
biệt nữa th́ ba tầng cấp thấp trong bốn thánh
pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chẳng
c̣n nữa, chẳng phân biệt bèn chẳng có. Không khởi
tâm động niệm, Phật trong mười pháp giới
cũng chẳng có, đó là minh tâm kiến tánh, trở về
tự tánh. Do vậy, kiến tánh là thật sự trở về
tự tánh, trở về tự tánh bèn gọi là Lư Định.
Tự tánh là Lư Thể, hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian đều từ Lư Thể biến hiện.
Quư vị đă hoàn toàn hiểu rơ, bèn đối với hết
thảy các hiện tượng, đối với y báo và
chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới, chẳng c̣n
khởi tâm động niệm nữa. Khởi tâm động
niệm đă chẳng có, đương nhiên chẳng có phân
biệt, chấp trước.
Nếu
chúng ta hỏi: Những vị ấy ứng hóa trong thế
gian, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hóa, chúng sanh
có cảm, Ngài bèn ứng, ứng hóa trong thế gian này, v́ chúng
ta thị hiện tám tướng thành đạo, Ngài có khởi
tâm động niệm hay không? Thưa cùng quư vị, thật
sự chẳng có. Thuở ấy, Ngài thị hiện trong nhân
gian, sống cùng một chỗ với chúng ta, chẳng khác
ǵ. Đức Phật có lúc rất hoan hỷ, có lúc cũng
cau mày ưu tư, đó có phải là khởi tâm động
niệm hay chăng? Chẳng phải. Đó là ǵ? Đó là cảm
ứng, khi chúng sanh hoan hỷ, Phật liền hoan hỷ;
khi chúng sanh ưu lự, Phật cũng ưu lự. Đối
với chuyện này, từ thí nghiệm với nước
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng người Nhật,
chúng ta có thể biết được tin tức. Ông ta làm
chuyện này mười mấy năm, tôi đă đến
thăm pḥng thí nghiệm của ông ta hai lần. Đó là thật,
chẳng giả tí nào! Nước là khoáng vật, quư vị
thấy một chén nước, một chén nước như
thế là khoáng vật, thông qua thí nghiệm khoa học, đă
chứng tỏ nước có thể thấy, nghe, và hiểu
ư nghĩ của con người. Nó có năng lực mạnh
mẽ hơn chúng ta, v́ sao? Nó có thể nhận biết các
thứ văn tự khác nhau, chúng ta vẫn
chẳng có cách nào! Bất luận văn tự nước
nào, quư vị đưa cho nó xem, nó đều nhận biết.
Bất luận ngôn ngữ của quốc gia nào, nó đều
nghe hiểu, [khả năng nghe, đọc của nước]
mạnh hơn chúng ta, chúng ta không bằng nó. Hết thảy
khởi tâm động niệm của chúng sanh nó đều
biết. Tôi khởi tâm động niệm nó biết, quư vị
khởi tâm động niệm nó cũng biết. Lại nói
cho quư vị biết, muỗi, trùng, kiến khởi tâm động
niệm, nó đều biết. Chúng ta hoan hỷ, nó cũng hoan
hỷ, hiển lộ sự kết tinh hết sức
đẹp đẽ. Trong tâm chúng ta ưu sầu, lo nghĩ,
nó cũng ưu lự, hiện ra h́nh dáng rất khó coi. Chúng
ta nói đó là “phản ứng tự
nhiên”, chúng sanh có cảm, nước có phản ứng. Lũ
chúng sanh chúng ta có cảm, Phật, Bồ Tát cũng có phản
ứng. Nhưng phản ứng của nước, nhất
định là phải dùng phương pháp khoa học mới
có thể thấy được, c̣n phản ứng của
Phật, Bồ Tát trên thế gian khiến cho chúng ta trực
tiếp cảm nhận. Các Ngài thật sự chẳng khởi
tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp
trước, hoàn toàn là cảm ứng đạo giao.
Hiện
thời, chúng ta cuối cùng cũng hiểu rơ chân tướng
sự thật là “vật chất và tinh thần vĩnh viễn
chẳng tách rời”. V́ trong vật chất có tinh thần, nên
bất luận vật chất nào cũng đều có thấy,
nghe, hay, biết. Thấy, nghe, hay, biết là Tánh Đức
vốn sẵn có trong tự tánh, đức Phật dạy:
“Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
đó là tự tánh. Do đó, mỗi cá nhân đều có trí
huệ giống hệt như chư Phật Như Lai. Phật
có [trí huệ ấy], mỗi cá nhân chúng ta cũng đều
có. Phật có năng lực, vạn đức vạn năng,
chúng ta cũng có. Chữ Vạn trong “vạn đức” là để h́nh dung, chẳng
phải là con số, đó là vô lượng, vô biên, vô tận,
vô số đức năng, chúng ta thảy đều có. Thứ
ba là tướng hảo, chúng ta cũng là vô lượng, vô
biên, vô tận, vô số tướng hảo. Nhưng hiện
thời chúng ta thứ ǵ cũng đều chẳng có, trí huệ
cũng chẳng có, đức tướng cũng chẳng
có, do nguyên nhân nào? Phật đă nói toạc một lời, “chỉ v́ vọng tưởng, chấp
trước, nên không thể chứng đắc”. Nói cách
khác, v́ chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp
trước, thôi rồi, ba thứ chướng ngại ấy
ngăn trở trí huệ và đức tướng của
chúng ta, khiến chúng chẳng thể hiện tiền. Ư nghĩa
này nhằm nói với chúng ta, chỉ cần chúng ta có thể
buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
xuống, v́ sao? Chúng là giả, những thứ ấy vốn
chẳng có. Quư vị chịu buông xuống, trí huệ và đức
tướng của quư vị liền khôi phục, Nhất Thiết
Chủng Trí bèn hiện tiền. Đối với vạn sự
vạn vật, quư vị thật sự chẳng khởi tâm
động niệm, đó là Lư Định, c̣n gọi là Tánh
Định, tự tánh vốn là Định. Khi Huệ Năng
đại sư minh tâm kiến tánh đă nói: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng
dao động”, đó là Lư Định. Trong hết thảy
các pháp, tự tánh chẳng hề dao động, nên tự
tánh vốn Định. Học Phật chẳng có ǵ khác, trở
về tự tánh mà thôi, trí huệ và đức tướng
viên măn trong tự tánh đều có thể hiện tiền.
Tiếp
đó, lại dẫn nhận định trong Tịnh Ảnh
Sớ: “Trụ thâm Định
môn, khởi hạnh sở y, vô tâm văng lai, trực dĩ tam-muội
pháp môn lực khởi, cố tu trụ Định” (Trụ môn Định
sâu, chỗ y cứ để khởi hạnh là xử sự
bằng vô tâm, dùng ngay sức của pháp môn tam-muội
để khởi hạnh, nên cần trụ nơi Định). Trước
hết giảng v́ sao phải trụ nơi Định?
Điều kiện tiên quyết để trụ nơi Định
là “khởi hạnh sở y, vô tâm
văng lai”. “Khởi hạnh” là ǵ? Hạnh là lục độ
vạn hạnh, cũng như nay chúng ta nói là “khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác”, bao gồm tất cả các hành vi của
chúng ta trong một đời suốt từ sáng đến
tối, phải nương vào đâu? Phải nương
vào vô tâm. “Vô tâm” là chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có khởi
tâm, chẳng có động niệm, phải nương vào điều
này. Ai có thể làm được? Pháp Thân Bồ Tát làm được.
Nói cách khác, người trong mười pháp giới chẳng
làm được. Hễ người minh tâm kiến tánh bèn
vượt thoát mười pháp giới, toàn bộ những
vị ấy đều làm được, đều là như
vậy. Thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́
chúng ta thị hiện như vậy, Lục Tổ Huệ Năng
đại sư cũng là như vậy. Theo Phật giáo sử
Trung Quốc ghi chép, mấy ngàn người trong Tông Môn, Giáo
Hạ, chẳng phải là một số ít, đều ở
trong cảnh giới này. Chúng ta phải học tập điều
này, phải học ǵ? Trong cuộc sống hằng ngày,
trong công việc, trong xử sự, đăi người tiếp
vật, học chẳng dùng vọng tâm. Khởi tâm động
niệm, phân biệt, chấp trước đều là vọng
tâm. Nếu quư vị chẳng dùng vọng tâm th́ dùng ǵ? Đừng
dùng vọng tâm, hăy dùng chân tâm. Chân tâm là ǵ? Chân tâm là trí huệ
Bát Nhă sẵn có trong tự tánh. Chúng ta dùng vọng tâm, chân tâm
chẳng hiển lộ, chẳng tỏ lộ ra được.
Chẳng dùng vọng tâm, chân tâm sẽ hiển lộ. Vọng
là giả, chẳng thật!
Có
cần phải trừ khử vọng tâm hay không? Không cần!
Quư vị trừ nó th́ vẫn là vọng. Trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật đă nêu tỷ dụ, chúng ta đứng
dưới mặt trời, coi chúng ta như chân tâm, cái bóng
do thân ta bị nắng chiếu là vọng tâm, quư vị có cần
trừ bỏ cái bóng ấy hay không? Quyết định chẳng
xóa được cái bóng. Quư vị trừ khử cái bóng chỉ
mất công, càng làm càng hỏng bét, đă vọng lại càng
thêm vọng! Đối với vọng tâm th́ như thế
nào? Mặc kệ nó! Không dùng đến nó th́ thôi, hết
chuyện, đừng ngó ngàng tới nó! Nó có gây trở ngại
hay không? Chẳng trở ngại! Quư vị ngẫm xem, quư vị
ở dưới ánh đèn hay dưới ánh mặt trời,
bóng dáng có chướng ngại hay không, có trở ngại
chuyện của quư vị hay không? Cần ǵ phải bận
tâm tới nó? V́ thế, sử dụng chân tâm. Thích Ca Mâu Ni Phật
đă v́ chúng ta thị hiện dùng chân tâm, dùng ngay trong cuộc
sống hằng ngày, dùng trong mặc áo, tŕ bát, khất thực,
dùng trong tọa Thiền, dùng trong giảng kinh, dạy học,
dùng trong ứng đối, Ngài dùng rất tự tại! Chúng
ta phải học điều này, học Phật phải học
từ chỗ này: Chẳng có vọng tâm, chẳng có phiền
năo, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc.
V́ sao? “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương,
cũng như chớp”. Đó là nói về căn bản
th́ mộng, huyễn, bọt, bóng chẳng tồn tại, quư
vị bận tâm đến chúng để làm ǵ? Hơn nữa,
chúng chẳng gây chẳng trở ngại. Chẳng trở
ngại th́ sao lại biến thành trở ngại? Hễ quư
vị phân biệt, chấp trước trong ấy, liền
bị trở ngại. Chẳng tăng thêm vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chuyện ǵ cũng chẳng
bị trở ngại, v́ sao? Chúng là giả, đúng là giống
như bóng dáng. Có thể thấy là trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta đă hoàn toàn sử dụng sai cái tâm, sử dụng
vọng tâm, chẳng biết dùng chân tâm. Chư Phật, Bồ
Tát dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm là dùng chân tâm. Dùng vọng
tâm bèn chẳng thấy chân tâm, phải chú tâm th́ mới thấu
hiểu đạo lư này. V́ thế, quư vị thấy đó,
“trực dĩ tam-muội pháp
môn lực khởi”, [nghĩa là] dạy [hành nhân] đừng
dùng vọng tâm, hăy trực tiếp dùng sức của pháp môn
tam-muội ḥng khởi hạnh. Đó là chân tâm khởi tác dụng,
trí huệ và đức năng vốn sẵn có trong tự
tánh khởi tác dụng. Do vậy, phải trụ trong Định,
quư vị không trụ nơi Định sẽ không được.
Trụ Định, trí huệ hiện tiền. Do đó, nhân
Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ.
Trí huệ đă khai th́ giới hạnh ấy gọi là Huệ
Hạnh, tâm ấy gọi là Huệ Tâm, hạnh là Huệ Hạnh.
“Hạ minh khởi hạnh” (tiếp
đó, nói về sự khởi hạnh), quư vị thấy đây
là hạnh của chư Phật và Pháp Thân Bồ Tát, “tất đổ hiện tại
vô lượng chư Phật, nhiếp hạnh khoan quảng”
(đều thấy hiện tại vô lượng chư Phật,
nhiếp hạnh rất rộng). Chúng ta hăy xem trang sau sẽ
thấy ư của ngài Tịnh Ảnh [đă được
cụ Niệm Tổ giảng giải như sau]: “Tịnh Ảnh sư chi ư vi: ‘Tất
đổ chư Phật’ thị hạnh môn, khởi thử
hạnh môn, y thâm Thiền Định, bất đăi khởi
tâm động niệm, trực tùng tam-muội pháp môn chi lực
khởi hạnh, cố tu trụ ư thậm thâm Thiền
Định” (Ư của ngài Tịnh Ảnh là: “Ắt thấy
chư Phật” là hạnh môn, khởi lên hạnh môn ấy,
nương vào sức Thiền Định sâu. Chẳng đợi
khởi tâm động niệm, mà thẳng thừng từ
sức của tam-muội pháp môn để khởi hạnh,
nên cần trụ trong Thiền Định sâu). Đối
với ư nghĩa của câu này, tôi hé lộ cho các vị đồng
học một ít tin tức, “tất
đổ hiện tại vô lượng chư Phật”
(ắt thấy vô lượng chư Phật trong hiện tại)
là người ấy thấy những ai vậy? [Chính là] hết
thảy chúng sanh trong hiện tại. Trong kinh, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
chúng sanh vốn là Phật”, nay người ấy đă
thấy. V́ sao người ấy thấy? Thấy bằng
chân tâm! Dùng vọng tâm sẽ chẳng nh́n ra! Dùng vọng tâm,
sẽ thấy mọi người toàn là phàm phu. Dùng chân tâm để
nh́n, sẽ thấy mọi người toàn là chư Phật.
Điều này đúng như đức Phật đă dạy
trong kinh: “Hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng”. Tâm của quư vị là chân,
quư vị thấy Nhất Chân pháp giới. Tâm của quư vị
là vọng, sẽ thấy mười pháp giới, thực tế
là lục đạo. Cảnh giới chẳng biến đổi,
nhưng tâm quư vị biến đổi. Do tâm quư vị đang
biến đổi, nên cảnh giới liền biến đổi
theo cái tâm ấy. V́ lẽ đó, đức Phật thấy
hết thảy chúng sanh đều là Phật, phàm phu thấy
Phật cũng là chúng sanh, cũng là phàm phu, đạo lư là
như thế đó. Có Phật hay chăng? Có chúng sanh hay chăng?
Chẳng có! Không có Phật, không có chúng sanh, thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác, đó mới là sự thọ dụng chân
thật trong pháp Đại Thừa. Do đó, ngài Tịnh Ảnh
cũng nói rất hay, Ngài chỉ ra rất rơ ràng, “tất đổ chư Phật”
(ắt thấy chư Phật) là hạnh môn, thật sự
trông thấy.
Khởi
hạnh môn ấy, nương vào Thiền Định sâu.
Thiền Định sâu là ǵ vậy? Không khởi tâm, không động
niệm, không đợi khởi tâm động niệm. Chúng
tôi diễn tả điều này là “không khởi tâm, không động niệm”, mọi
người sẽ dễ hiểu hơn. Khởi tâm động
niệm c̣n chẳng có, đương nhiên chẳng có phân
biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp trước
do khởi tâm động niệm mà có. Chẳng có khởi tâm
động niệm, bèn chẳng có phân biệt, chấp
trước, nên nó trực tiếp từ sức tam-muội
pháp môn khởi hạnh. Tam-muội pháp môn là định lực,
định ǵ vậy? Tự tánh vốn định, v́ trước
đó có chữ Trực. “Trực
tùng” th́ phải là tự tánh vốn định. Hoàn toàn là
tự tánh khởi tác dụng, ở trong ấy chẳng có
thức, thức là ǵ? A Lại Da, Mạt Na, và ư thức; ư thức
là phân biệt, Mạt Na là chấp trước, A Lại Da
là khởi tâm động niệm. Không khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước là chuyển
tám thức thành bốn trí, cảnh giới này chẳng thuộc
trong mười pháp giới. Trong mười pháp giới chẳng
có [cảnh giới này]. Cảnh giới này thuộc về cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Trong cơi
Thật Báo Trang Nghiêm có [cảnh giới ấy], đó là Nhất
Chân pháp giới, chứ trong mười pháp giới chẳng
có. V́ thế, phải trụ trong Thiền Định rất
sâu. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta chỉ có
thể học tới đây. Được rồi! Ngày
mai chúng ta sẽ học tiếp.
Tập
126
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh
Giải, trang một trăm bốn mươi lăm, ḍng
thứ năm, xem từ câu cuối cùng.
“Tịnh Ảnh sư ư vi” (ư của
ngài Tịnh Ảnh), xem từ chỗ này, “tất đổ chư Phật thị hạnh môn,
khởi thử hạnh môn, y thâm Thiền Định. Bất đăi khởi tâm động
niệm, trực tùng tam-muội pháp môn chi lực khởi hạnh,
cố tu trụ ư thậm thâm Thiền Định” (“ắt
thấy chư Phật” là hạnh môn, khởi lên hạnh
môn ấy, nương vào sức Thiền Định sâu. Chẳng
đợi khởi tâm động niệm, mà thẳng thừng
từ sức của tam-muội pháp môn để khởi hạnh,
cho nên cần trụ trong Thiền Định rất sâu). Hôm
trước chúng ta đă học tới đây. Câu này có ư
nghĩa hết sức quan trọng, tuy nói là những vị
Pháp Thân đại sĩ tham dự pháp hội Vô Lượng
Thọ của đức Thế Tôn, nhưng các Ngài chẳng
phải là phàm nhân. Nói thông thường, một vạn hai
ngàn người ấy đều là Phật, Thiên Thai đại
sư gọi họ là Phần Chứng Tức Phật, kinh
Kim Cang gọi họ là “chư Phật
Như Lai”. Chúng ta xem bộ [Kim Cang Kinh] Giảng Nghĩa
của cư sĩ Giang Vị Nông, ông ta đă giải thích
chữ “chư Phật” trong
kinh [Kim Cang] chỉ bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ. Do có bốn mươi mốt
địa vị nên gọi là Chư, những vị ấy
đều là Phật, thường gọi là Phần Chứng
Tức Phật. Trong hội Hoa Nghiêm, chúng ta đă học
chuyện này rất nhiều, những vị ấy không chỉ
là Kiến Tư và Trần Sa phiền năo đều đoạn,
mà vô minh cũng đoạn, vô minh là khởi tâm động
niệm. Nói cách khác, lục căn của họ tiếp xúc
cảnh giới sáu trần, thật sự chẳng khởi
tâm, không động niệm, há chẳng phải là đă thành
Phật ư? Đại Thừa tại Trung Quốc
thường nói [những vị ấy] là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, một
vạn hai ngàn người ấy đều đă minh tâm kiến
tánh.
“Tịnh Ảnh” là chùa Tịnh
Ảnh, chẳng phải là tên pháp sư, mà là tên ngôi chùa Ngài
trụ. Do tôn trọng Ngài, dùng tên chùa để thay thế,
nên gọi là “Tịnh Ảnh sư”.
Ngài có pháp danh là Huệ Viễn, có tên hoàn toàn giống với
tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Tông là
Huệ Viễn đại sư. Trong lịch sử [Phật
giáo Trung Hoa], Ngài được gọi là Tiểu Huệ Viễn.
Huệ Viễn đại sư ở Đông Lâm Niệm Phật
Đường tại Lô Sơn vào thời Đông Tấn được
gọi là Đại Huệ Viễn, c̣n vị này thuộc
vào đời Tùy - Đường, được gọi
là Tiểu Huệ Viễn. Ngài có chú giải kinh Vô Lượng
Thọ, trong chú giải của Ngài có ư nghĩa được
giảng theo cách như thế này “tất đổ chư Phật” (ắt thấy
chư Phật) là hạnh môn. Trong cảnh giới ấy, mười
phương ba đời hết thảy chư Phật Như
Lai người ấy đều trông thấy, đều
nh́n thấy. Khởi lên hạnh môn này, nương vào Thiền
Định sâu, nhưng chẳng được phép khởi
tâm động niệm trong ấy, v́ sao? Khởi tâm động
niệm là vô minh. Người ta đă phá vô minh, chẳng c̣n
nữa. Họ trụ nơi đâu? Trong Nhất Chân pháp giới.
Nếu khởi tâm động niệm, trụ xứ của
họ là tứ thánh pháp giới, chẳng phải là Nhất
Chân pháp giới. Tứ thánh pháp giới c̣n gọi là cơi Phương
Tiện Hữu Dư. Nhất Chân pháp giới là cơi Thật
Báo Trang Nghiêm, đó là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Phật,
mà cũng là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính ḿnh. Giống
như chúng ta trong hiện thời, nay chúng ta là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước một phẩm
cũng chưa phá. Nói cách khác, trọn đủ vô lượng
vô biên tập khí phiền năo, nay chúng ta đang ở nơi đâu?
Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Lục đạo luân hồi là cơi Phàm Thánh Đồng
Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta sống ở nơi
đây, cũng là cơi Phàm Thánh Đồng Cư của chính
ḿnh, nhất định phải hiểu điều này. Quư
vị thấy “sanh Phật bất
nhị”, nghĩa là chúng sanh và Phật chẳng khác nhau. Bản
thân chúng ta ở trong giai đoạn nào, liền trụ
trong Phật Báo Độ ấy, có nghĩa là thuộc loại
Báo Độ nào của Phật, nhất định phải
biết điều này!
Một
vạn hai ngàn vị Bồ Tát ấy đă đoạn hết
vô minh, chẳng khởi tâm, không động niệm, đó
là “thậm thâm Thiền Định”.
Trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng quư vị,
Thiền Định này là tự tánh vốn định. Khi
Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền
Tông kiến tánh, lăo nhân gia đă nói: “Nào ngờ tự tánh vốn chẳng dao động”,
đă nói câu ấy. Câu ấy nói về tự tánh vốn định,
chẳng do tu được. Tự tánh vốn bất động;
bất động là chẳng khởi tâm, không động niệm.
Khởi tâm động niệm c̣n chẳng có, lấy đâu
ra phân biệt, chấp trước? Khởi tâm động
niệm là vô minh phiền năo, phân biệt là đại phiền
năo, chấp trước là phiền năo nghiêm trọng nhất.
Quư vị thấy: Có chấp trước th́ mới có lục
đạo luân hồi. Chẳng có chấp trước, sẽ
chẳng thấy luân hồi. Luân hồi là giả, chẳng
thật. Phân biệt cũng chẳng thật. Nếu buông phân
biệt xuống, chẳng có phân biệt, mười pháp giới
đều chẳng có, cũng có nghĩa là cơi Phương
Tiện Hữu Dư của chư Phật bèn chẳng có.
Vĩnh Gia đại sư đă nói: “Giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”, đại thiên
thế giới chẳng có. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, rành
rẽ Lư và Sự. Tu hành là tu ǵ? Học sao cho trong cảnh
giới chẳng động niệm, đó là cao minh nhất.
Học chẳng khởi tâm, không động niệm, vĩnh
viễn giữ cho tâm chính ḿnh thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác, đó là công phu, quư vị bèn thành Phật.
Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật
là thành ǵ? Tựa đề kinh đă nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là công phu
của chính ḿnh. Đối ứng của công phu, tức là
công phu [thành tựu sẽ] hiện ra tướng ǵ? Hiện
thành Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đó
là thế giới Cực Lạc. Đại Thừa là trí huệ,
trên thực tế câu này đúng như đức Phật
đă nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”. Đại Thừa là trí huệ, Vô Lượng
Thọ là đức, Trang Nghiêm là tướng. Quư vị thấy
trong tựa đề của kinh này, câu này nói đến quả
báo. “Thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” là nhân hạnh, quư vị có nhân th́ mới có quả;
có quả, nhất định có nhân. Chúng ta bèn hiểu Tịnh
Tông tu điều ǵ? Tu “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Dùng phương pháp ǵ để tu?
Nay chúng ta chọn lựa, trong kinh này, đức Phật dạy
chúng ta tŕ danh niệm Phật, “phát
Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”, mục
tiêu là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Nói chung, phải niệm cho ra cái tâm thanh tịnh, tâm
ở trong cảnh giới nào cũng chẳng bị quấy
nhiễu: Trong thuận cảnh, chẳng khởi tham luyến;
trong nghịch cảnh, chẳng sanh sân khuể, tâm quư vị
nhập Định. Định ấy chính là Niệm Phật
tam-muội, chẳng bị cảnh giới lay động.
V́ sao? Về Lư, quư vị đă giác ngộ “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bọt, bóng”, chúng là giả, chẳng thật!
Trong
quá tŕnh tu hành, tất cả các hiện tượng là ǵ? Nhằm
biểu thị pháp cho chúng ta! V́ sao Thiện Tài đồng tử
thành Phật viên măn trong một đời? Thiện Tài đồng
tử và chúng ta có mối quan hệ rất chặt chẽ,
v́ quư vị thấy phẩm này là Đức Tuân Phổ Hiền,
học nhân Tịnh Tông tu pháp môn ǵ? Tu pháp môn Phổ Hiền.
Pháp môn Phổ Hiền tu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Năm
mươi ba lần tham học là chuyện như thế nào?
Học rồi phải biết dùng, học sống động,
vận dụng sống động. Năm mươi ba lần
tham học là chúng ta từ sáng đến tối, quư vị
sáng sớm thức dậy, mở mắt ra, thấy cảnh
giới bên ngoài, quư vị sống, làm việc từ sáng đến
tối, xử sự, đăi người, tiếp vật, quư
vị thấy đó chính là năm mươi ba lần tham
học. Năm mươi ba vị Bồ Tát đại diện
cho nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề đều biểu
diễn trước mặt quư vị. Quư vị ở trong ấy
tu ǵ? Tu như như bất động. Cách tu như thế
nào? Giữ lấy một câu A Di Đà Phật, trong tâm ta chỉ
có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ
cũng đều chẳng có, cảnh giới bên ngoài đều
biến thành A Di Đà Phật, thiện nhân là A Di Đà Phật,
ác nhân cũng là A Di Đà Phật, súc sanh cũng là A Di Đà
Phật, ngạ quỷ cũng là A Di Đà Phật, địa
ngục cũng là A Di Đà Phật, cây cối, hoa, cỏ, núi,
sông, đại địa đều là A Di Đà Phật, chúc
mừng quư vị, quư vị đă thành Phật. Nội tâm là
A Di Đà Phật, toàn bộ cảnh giới bên ngoài đều
biến thành A Di Đà Phật, cảnh chuyển theo tâm mà! V́
sao chúng ta chẳng thể chuyển? Ta ưa thích cái này, chán
ghét cái kia, chẳng chuyển được, quư vị vẫn
là phàm phu! Thật sự biết học, ai nấy đều
là Thiện Tài, mỗi người đều thành Phật viên
măn trong một đời, nhất là Tịnh Tông, tuyệt
diệu lắm! Chớ nên không hiểu đạo lư này!
Thiện
Tài đồng tử dạy chúng ta học sống động,
vận dụng sống động. Kinh Hoa Nghiêm có lư luận
viên măn, có phương pháp chu đáo, chặt chẽ. Những
lư luận và phương pháp ấy vận dụng trong cuộc
sống như thế nào, dùng trong công việc như thế
nào, dùng để đăi người tiếp vật như
thế nào? “Tiếp vật” là
đối đăi cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại
địa, đối đăi các chúng sanh thuộc những
chiều không gian khác nhau, vận dụng toàn bộ, người
ấy đă thật sự hiểu. Giống như các vị
thầy trong Tông Môn thường sát hạch học tṛ bằng
câu hỏi “hiểu không”? Đă
hiểu th́ dùng được toàn bộ. Nếu không, học
th́ có học, nhưng chẳng dùng được! Cuộc
sống hằng ngày vẫn là tập khí phiền năo nắm
quyền làm chủ, như vậy th́ chẳng có cách nào hết!
Chẳng có cách nào th́ cứ từ từ, nói chung, sẽ có
một ngày quư vị học hiểu. Người có thể
học hiểu trong hiện tiền, nói thật ra, cũng chẳng
phải là học Phật trong một đời. Học Phật
chỉ một đời, há có thể mau chóng dường ấy?
Há lẽ nào vừa học liền dùng được ngay?
Tối thiểu là mười đời trở lên, mười
đời là tối thiểu! Trong đời quá khứ, quư
vị đă học Phật mười đời, nên mới
có một chút thiện căn, có đôi chút phước
đức như thế. Học rồi, hiểu rồi, thật
sự hiểu, biết sử dụng, vận dụng vào
cuộc sống, lẽ đâu chẳng sung sướng? Pháp
hỷ sung măn! Thường sanh tâm hoan hỷ, đạo lư
là như vậy đó. Học Phật là như vậy, mà học
pháp thế gian cũng là như vậy. Pháp thế gian của
Trung Quốc lấy Khổng Mạnh làm đại biểu.
Khổng Tử và Mạnh Tử cũng lỗi lạc: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ?” (học rồi luyện tập,
cũng chẳng vui ư). Họ biết vận dụng toàn
bộ những điều đă học, “tập” (習) là làm được,
cũng như chúng ta nói thực hiện trong công việc, thực
hiện trong cuộc sống, thực hiện trong xử sự,
đăi người, tiếp vật, họ làm được,
nên họ vui sướng. “Duyệt”
(悅) là hỷ duyệt. Hỷ
duyệt chẳng phải từ bên ngoài mà có, mà do từ
trong nội tâm sanh ra, tức là tự tánh hỷ duyệt, là
thật, chẳng giả. Do đó, đoạn này có ư nghĩa
rất sâu, họ chẳng cần phải khởi tâm động
niệm.
Thẳng
thừng từ sức tam-muội pháp môn để khởi
hạnh, từ ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă ra đời trong thế gian này, biểu diễn cho chúng
ta thấy. Tại Ấn Độ, khá nhiều vị tổ
sư, Bồ Tát cũng biểu diễn cho chúng ta thấy.
Tại Trung Quốc, hai ngàn năm qua, Phật pháp chánh thức
truyền đến Trung Quốc là do đế vương
Trung Quốc phái đặc sứ sang Tây Vực cung kính lễ
thỉnh [các vị tỳ-kheo] đến Trung Quốc. Lịch
sử ghi chép điều này rất rơ ràng: Năm Vĩnh B́nh
thứ mười đời Hán Minh Đế, tức năm
67 Công Nguyên. Năm nay là năm 2010 Công Nguyên, Phật pháp truyền
đến Trung Quốc vào năm 67 Công Nguyên. Chúng ta thường
tính tṛn số, nói là hai ngàn năm. Thật ra, phải tới
năm 2067 Công Nguyên mới thật sự là hai ngàn năm.
Hai ngàn năm qua, trong lịch sử Trung Quốc, trải các
đời, những vị tổ sư đại đức,
kể cả các cư sĩ là những người đạt
tới cảnh giới này. Quư vị đọc Cao Tăng
Truyện, hoặc đọc Ngũ Đăng Hội Nguyên,
trong các sách vở ấy chép khoảng chừng hai ba ngàn người.
Hai, ba ngàn vị Phật xuất thế tại Trung Quốc,
nơi này phước báo to lắm, có một không hai trên đời,
ngay cả Ấn Độ c̣n kém Trung Quốc. Phật giáo Trung
Quốc suy vi vào thời cận đại, sau khi nhà Măn
Thanh vong quốc, Dân Quốc thành lập, tuân hành chế độ
dân chủ, coi rẻ giáo dục truyền thống, xem nhẹ
tu học Phật pháp, đó là nguyên nhân khiến cho Phật
giáo suy vi. Đương nhiên là có quan hệ đến
phước báo của người trong thế hệ này. Thật
sự có phước báo, Phật, Bồ Tát liền hiện
ra, liền ngự đến, [chúng ta] chẳng có phước
báo ấy! Quư vị thấy người hiện thời tận
lực hưởng phước, làm sao mà chẳng có phước
báo cho được? Đúng vậy! Chúng ta thấy họ
hưởng phước, chẳng thấy họ tu phước,
nên họ chẳng có phước báo. Hưởng phước
mà lại tu phước, phước báo ấy mới có thể
vĩnh viễn tiếp tục phát triển. Nếu chỉ
hưởng phước không tu phước, phước ấy
sẽ bị hưởng hết. Hưởng hết th́
sao? Hưởng hết th́ chẳng c̣n nữa! Chúng ta chẳng
cần đợi đến khi hưởng hết phước
mới thấy kẻ đó chẳng có phước, thấy
kẻ ấy ngay đang trong lúc hưởng phước mà
chẳng biết tu phước, đă biết kẻ ấy
chẳng có phước. Họ có phước báo to như
thế là do tu ở nơi đâu? Đều là do đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ đă tu nơi Phật
môn. Chẳng phải là [tu tập phước báo trong] Phật
môn th́ làm sao có thể tu phước báo lớn ngần ấy?
Trong sách vở của cổ nhân, những đạo lư và chân
tướng sự thật này đă được ghi chép
rất nhiều, đâu đâu cũng đều có thể thấy.
Người hiện thời chẳng đọc cổ thư,
không có cách nào hết. Nếu quư vị đọc sách cổ
th́ điển tịch của ba nhà Nho, Thích, Đạo đều
nói rất rơ ràng, lại c̣n giảng rất nhiều!
Những người hữu tâm hăy nên lưu
ư điều này, phải phát tâm, phải nối tiếp huệ
mạng của Phật, “phải v́ [kế tục] cái học
tuyệt diệu của các vị cổ thánh, phải v́ mở
ra nền thái b́nh cho muôn đời”, tâm ấy là Bồ Đề
tâm. Những lời trên đây là cách nói của Nho gia, trong
Phật pháp bèn gọi [tâm nguyện ấy] là “thật sự phát Bồ Đề
tâm”. Chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ quốc gia, v́ dân tộc, v́
chúng sanh khổ nạn trong thế giới, chúng ta phải phát
tâm nỗ lực thực hiện. Học Nho phải thành
thánh, phải thành hiền, học Đạo phải thành
thần tiên, học Phật phải giống như Phật,
Bồ Tát. Được không? Được chứ! Chẳng
có thầy tốt! Chẳng có thầy tốt vẫn
được! Gần đây, chúng ta phát hiện hai người,
tôi tin tưởng là không phải chỉ có hai người,
nhất định c̣n có rất nhiều, nhưng chúng ta không
biết. Họ học thành công, chúng ta đă biết, đă
phát hiện hai người ấy. Tôi gặp mặt một
người, c̣n một người chưa được
gặp mặt. Họ học bao lâu? Mười năm mà thôi,
mười năm bèn thành công. Học như thế nào? Nương
theo giáo huấn của tổ tiên mà học thành. Tổ tiên
dạy chúng ta: “Giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên” (đạo lư dạy học là chú trọng
chuyên nhất). Đạo lư dạy học là phải chú trọng
“chuyên”, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, họ bèn thành công.
Hai người ấy, chưa từng gặp mặt nhau, một
ở Đông Bắc, người kia ở Tứ Xuyên. Hai người
ấy chưa hề gặp nhau, cũng chẳng quen biết
nhau, nhưng đôi bên có cùng một cái tâm học tập, phương
pháp giống nhau, tức là một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, một câu Nam-mô A Di Đà Phật, họ chuyên! Mỗi
ngày nghe giảng giải kinh Vô Lượng Thọ, nói chung đều
là đĩa CD do tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ trong
quá khứ, mỗi ngày nghe mười giờ, thời gian c̣n
lại bèn niệm A Di Đà Phật. Mười năm mỗi
ngày đều hệt như nhau, chẳng bỏ luống
ngày nào, họ bèn thành công. Mỗi người chúng ta đều
bỏ lỡ vài chục năm, chẳng nắm lấy thời
gian. Người ta rất may mắn, nắm bắt thời
gian, mỗi ngày tâm đặt nơi đạo mười
mấy giờ. Ngoài thời gian ngủ mất bốn, năm
giờ ra, những thời gian khác, nếu chẳng nghe kinh
bèn niệm Phật. Người tại gia c̣n làm chuyện
nhà, làm chuyện nhà chẳng ít, chẳng trở ngại. Khi
nghe kinh phải chuyên tâm, chớ nên phân tâm. Khi làm chuyện
nhà th́ có thể niệm Phật hiệu, trong tâm có Phật,
trong miệng có Phật, chẳng trở ngại công việc! Tôi tin tưởng không chỉ có
hai người ấy, khẳng định c̣n nhiều
hơn, nhưng nay chúng ta chưa biết. Những người
ấy nêu gương tốt nhất cho đồng tu tu Tịnh
Độ niệm Phật chúng ta, họ thật sự thành
tựu. Chúng ta có lư do để tin tưởng họ sẽ
văng sanh tự tại. Nay họ vẫn chưa đi, nói
cách khác, họ có nhiệm vụ, có nghĩa vụ giúp chúng
sanh khổ nạn trong thế gian này. Nơi họ ở,
tuy là nhà của chính họ, nhưng căn nhà ấy là đạo
tràng thật sự, là đạo tràng của Phật. Đạo
tràng của Phật ở nơi đâu, nơi ấy rất
ít tai nạn, nhất định là nơi ấy có rất nhiều
người học tập theo họ. Họ là tấm gương
tốt cho đại chúng. Sách Hoàn Nguyên Quán nói đến Tứ
Đức, chú tâm quan sát sẽ thấy họ trọn đủ
[Tứ Đức], tùy duyên diệu dụng, oai nghi đúng
chuẩn mực, biểu hiện thành tấm gương tốt,
nhu ḥa, chất trực, đó là “dạy người khác làm
người”. Thái độ làm người phải nhu ḥa, tâm
địa phải chân thành, chịu khổ thay cho chúng sanh,
đó là Tứ Đức của Bồ Tát. Quư vị hăy cẩn
thận quan sát, [sẽ thấy] họ đều trọn đủ.
V́ thế, tâm địa của họ an trụ trong Niệm
Phật tam-muội rất sâu.
Chúng
ta xem đoạn kế tiếp: “Nhược
y bổn kinh” (nếu dựa trên kinh này), dùng kinh văn của
kinh này để giải thích, “tắc
Định trung kiến Phật, chánh thị Di Đà đệ
tứ thập ngũ Định trung cúng Phật đại
nguyện” (th́ “trong Định cúng Phật” chính là đại
nguyện thứ bốn mươi lăm “trong Định
cúng Phật” của Phật Di Đà). “Tứ thập ngũ” chính là nguyện thứ bốn
mươi lăm trong bốn mươi tám nguyện, tức
là nguyện “Định trung
cúng Phật”. Lời giải thích này cũng hết sức
hay, v́ sao? Có quan hệ rất chặt chẽ với chúng ta.
Chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
A Di Đà Phật dùng bốn mươi tám nguyện gia tŕ chúng
ta. Nếu chẳng vậy, quư vị làm sao có thể biến
thành A Duy Việt Trí Bồ Tát? Quư vị được bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Kế
đó, lời nguyện được trích lục như
sau: “Nguyện văn viết: Thập
phương Phật sát chư Bồ Tát chúng, văn ngă danh dĩ,
giai tất đăi đắc thanh tịnh, giải thoát, phổ
đẳng tam-muội, chư thâm tổng tŕ, trụ tam-ma-địa.
Chí ư thành Phật, Định trung thường cúng vô lượng
vô biên nhất thiết chư Phật, bất thất định
ư” (Nguyện văn là: “Các vị Bồ Tát trong mười
phương cơi Phật, nghe tên ta đều đạt đến
thanh tịnh, giải thoát, phổ đẳng tam-muội, các
môn tổng tŕ sâu, trụ trong tam-ma-địa, cho đến
khi thành Phật, trong Định thường cúng vô lượng
vô biên hết thảy chư Phật, chẳng đánh mất
định ư”). Đến thế giới Cực Lạc bèn
thực hiện, mười phương cơi Phật có phạm
vi quá lớn, không chỉ là các đệ tử của Thích
Ca Mâu Ni Phật trong thế giới Sa Bà, hoặc người
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chỉ đến
từ một cơi, mà là mười phương ba đời
vô lượng, vô biên, vô số, vô tận cơi Phật. Chúng ta
đến Cực Lạc thế giới bèn hỏi, quư vị
từ thế giới nào đến? Người kia từ
thế giới nào đến? A Di Đà Phật chẳng cần
hỏi, Ngài hoàn toàn biết, quư vị liền biết thế
giới Cực Lạc rất náo nhiệt. Hơn nữa, người
trong thế giới Cực Lạc đều là các vị
thượng thiện nhân, những người ấy không
chỉ chẳng có hành vi ác hèn, mà ư niệm hèn ác cũng chẳng
có, thượng thiện mà! Không phải là thượng thiện,
làm sao đến đó được? Đều là Bồ
Tát, đều phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên
niệm th́ mới có thể văng sanh. Do vậy, các vị Bồ
Tát “văn ngă danh dĩ” (đă
nghe tên ta), tức là nghe danh hiệu A Di Đà Phật, đều
đạt đến thanh tịnh, giải thoát, phổ đẳng
tam-muội, thảy đều đạt được. Quư
vị thấy chữ “thanh tịnh”,
tựa đề kinh này có “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, ở đây, không nói b́nh đẳng,
chẳng nói giác, chỉ nói thanh tịnh, dụng ư rất sâu.
Đạt được thanh tịnh, chúng ta chia Niệm Phật
tam-muội thành ba phẩm thượng, trung, hạ: Thanh tịnh
là hạ phẩm, b́nh đẳng là trung phẩm, giác là thượng
phẩm. Hạ phẩm đă là như thế, huống hồ
trung phẩm và thượng phẩm? Chẳng cần phải
nói nữa! Đây là sự khéo léo trong việc nêu thí dụ,
họ đều đạt được tâm thanh tịnh.
Tâm thanh tịnh chính là Niệm Phật tam-muội, là công phu
định lực do niệm Phật.
Chữ Giải trong Giải Thoát, đọc
như chữ Tạ (Xiè) [trong tiếng Quan Thoại], hiểu
theo nghĩa động từ, tức là giải khai, giải
trừ. Giải trừ ǵ vậy? Giải trừ phiền năo,
Giải là giải trừ phiền năo. Giải trừ Kiến
Tư phiền năo, giải trừ Trần Sa phiền năo, Vô
Minh phiền năo cũng giải trừ. Thoát là thoát luân hồi,
thoát mười pháp giới, thoát ly hai thứ sanh tử, Thoát
là thoát ly. Giải là nói theo nhân, Thoát là nói theo quả. Quư
vị có phiền năo th́ c̣n có luân hồi, tức là có chấp
trước. Chấp trước là Kiến Tư phiền
năo, đó là cái nhân của luân hồi. Buông hết thảy chấp
trước xuống, luân hồi chẳng c̣n nữa. Do vậy,
lục đạo là giả, chẳng thật. Nay chúng ta thấy
lục đạo tồn tại, do nguyên nhân ǵ? Chúng ta chưa
buông chấp trước xuống. Hễ buông chấp trước
xuống, lục đạo bèn chẳng có. Lục đạo
chẳng có, tứ thánh pháp giới hiện tiền. Cảnh
giới này là tứ thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật, cảnh giới này được
gọi là cơi Phương Tiện Hữu Dư, cảnh giới
này hiện tiền. Cảnh giới này do Vô Minh và Trần Sa
phiền năo biến hiện. Nếu chúng ta cũng thật
sự có thể buông Trần Sa phiền năo và Vô Minh phiền
năo xuống, tứ thánh pháp giới cũng chẳng có; khi ấy,
quư vị mới biết mười pháp giới là giả,
mười pháp giới chẳng thật. Mười pháp giới
chẳng có, cảnh giới xuất hiện là cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Trong phần trước, chúng tôi đă thưa tŕnh
cùng quư vị, cơi Thật Báo của A Di Đà Phật cũng
là cơi Thật Báo của chính ḿnh hiện tiền. Chính ḿnh và
A Di Đà Phật là một, không hai. Đúng như trong Trung
Phong Tam Thời Hệ Niệm, thiền sư Trung Phong đă
nói: “Tâm ta chính là A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật chính là tâm ta. Phương này là Tịnh
Độ, Tịnh Độ chính phương này”, có ư
nghĩa ấy. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật
đă nói: “Cảnh chuyển
theo tâm”. Vốn chẳng có cảnh giới, cảnh giới
sanh từ ư niệm. Niệm thanh tịnh, cảnh giới
hiện ra là cơi nước thanh tịnh. Niệm nhơ bẩn,
giống như hoàn cảnh ô nhiễm trên địa cầu
hiện thời, là do ư niệm biến hiện. Phải biết
cảnh giới tùy thuộc ư niệm của chính ḿnh, chẳng
tùy thuộc kẻ khác. Tùy thuộc người khác th́ chúng
ta làm sao có thể giải thoát cho được? Chúng ta làm
sao thành tựu cho được? Nhất định phải
biết: Chính ḿnh làm chủ tể!
Trong
khi chúng ta học tập Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, tôi đă
đặc biệt nhấn mạnh, đặc biệt nhắc
nhở các đồng học, y báo và chánh báo phải hiểu
như thế nào? Chánh báo là chính ḿnh, trừ chính ḿnh ra đều
là y báo. Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta, ta là chánh báo.
Thích Ca Như Lai, Di Đà Như Lai là y báo của ta, là hoàn cảnh
của ta, nhất định phải hiểu rơ điều
này. Đứng về phía Thích Ca Như Lai, bản thân Ngài là
chánh báo, chúng ta trở thành y báo của Ngài, phải hiểu
điều này. Quư vị hiểu đạo lư này, mới
biết cách chuyển ra sao, chuyển từ chính ḿnh, chẳng
phải là chuyển hoàn cảnh bên ngoài. Ta đă chuyển,
toàn bộ hoàn cảnh bên ngoài đều chuyển theo ta. Nếu
ta chẳng chuyển, sẽ bị hoàn cảnh bên ngoài chuyển,
tức là nói hoàn cảnh ảnh hưởng quư vị. Nếu
chính ḿnh có thể chuyển, hoàn cảnh chẳng thể ảnh
hưởng ta, ta có thể ảnh hưởng hoàn cảnh.
Kinh dạy: “Nếu có thể
chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”. Nếu
quư vị có thể chuyển cảnh giới, quư vị là Như
Lai; nói cách khác, quư vị thành Phật. Do vậy, chúng ta phải
học tập chuyển hoàn cảnh, trọn chớ nên vẫn
bị hoàn cảnh ảnh hưởng, nói rơ điều ǵ?
Nói rơ chúng ta học tập công phu chưa đắc lực.
Công phu đắc lực chẳng sợ hoàn cảnh; hoàn cảnh
ǵ đưa đến, ta cũng chuyển được.
Ta dùng năng lực ǵ để chuyển? Ta không khởi tâm,
không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước, liền chuyển được. V́ thế,
chư vị hăy suy ngẫm, chúng ta vẫn bị hoàn cảnh
ảnh hưởng, vẫn bị nó chuyển, ta vẫn khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, có
đáng tin cậy hay không? Học Phật là phải học
bản lănh này th́ mới có thể thật sự giải thoát,
đắc tự tại.
Tiếp
đó nói đến “phổ
đẳng tam-muội”, tức là Niệm Phật tam-muội.
Phổ (普) là phổ biến,
Đẳng (等) là b́nh đẳng. Nói cách
khác, lục căn của quư vị tiếp xúc vạn sự
vạn vật toàn là b́nh đẳng, đó là thành Phật. V́
sao? Quư vị chẳng có phân biệt liền b́nh đẳng,
có phân biệt bèn chẳng b́nh đẳng. Có chấp trước
bèn không thanh tịnh. Không chấp trước, tâm bèn thanh tịnh.
Chẳng phân biệt, tâm đạt đến b́nh đẳng.
B́nh đẳng là Bồ Tát tâm, thanh tịnh là Nhị Thừa
tâm. A La Hán và Bích Chi Phật tâm địa thanh tịnh, nhưng
c̣n có phân biệt, nên bất b́nh đẳng. Tâm Bồ Tát b́nh
đẳng, giác là Phật tâm, giác là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Câu này cũng là như
trong kinh có nói: “Phổ cập
nhất thiết b́nh đẳng trụ” (trụ trong sự
b́nh đẳng phổ cập hết thảy), tâm quư vị
trụ trong hết thảy các pháp b́nh đẳng. V́ sao hết
thảy các pháp b́nh đẳng? Pháp Thân Bồ Tát biết, Phật
trong mười pháp giới chưa biết, nhưng Phật
trong mười pháp giới đúng là học sinh tốt của
Phật, rất nghe lời, thật sự thật thà, thật
sự hành. Tuy tám thức c̣n chưa chuyển, nhưng các Ngài
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác chẳng
khác ǵ Phật. Ngài rất biết học, học giống Phật
như đúc; chỗ thua kém là tâm chẳng giống, tâm chẳng
như tâm Phật. Có nghĩa là tâm Phật (Cứu Cánh Phật)
là Định, chẳng khởi tâm, không động niệm,
c̣n Phật trong mười pháp giới (Tương Tự
Tức Phật) vẫn khởi tâm động niệm. Tuy chẳng
có phân biệt, chấp trước, nhưng vẫn c̣n khởi
tâm động niệm, khác [Cứu Cánh] Phật ở chỗ
này. Hễ buông khởi tâm động niệm xuống, vị
ấy bèn thành [Cứu Cánh] Phật, thật đấy, chẳng
giả đâu! Phổ đẳng quan trọng lắm!
Phương
pháp tu phổ đẳng của chúng ta cao minh hơn các pháp
môn khác, nên pháp môn Tịnh Tông tuyệt diệu, thật sự
chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta mới có đôi chút chấp
trước th́ đă mê mất rồi, phiền năo đă dấy
lên hiện hành. Cổ đại đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”. V́ sao? Chúng ta là phàm phu, lăn
lộn trong sanh tử luân hồi vô lượng kiếp, làm
sao có thể chẳng khởi phiền năo? Đương
nhiên là kẻ ấy khởi phiền năo; do đó, khởi phiền
năo là một hiện tượng b́nh thường, nói “không sợ niệm khởi” v́
đó là hiện tượng b́nh thường. Sợ điều
ǵ? Quư vị giác quá chậm, phải giác mau! Giác là ǵ? A Di Đà
Phật là giác, niệm vừa mới dấy, liền lập
tức giác ngộ “A Di Đà Phật”, dùng một câu A Di Đà
Phật để hóa giải, thảy đều trụ trong
Phổ Đẳng tam-muội của A Di Đà Phật. Thuận
cảnh, thiện duyên, A Di Đà Phật! Nghịch cảnh,
ác duyên, vẫn là A Di Đà Phật, chẳng phải là xóa bằng
rồi ư? Điều này khiến cho tất cả các pháp
môn đều chẳng thể sánh bằng niệm Phật!
Niệm Phật giác mau chóng, niệm trước vừa mê,
tâm vừa động, chúng ta thường nói là “phiền năo
dấy lên, tập khí hiện tiền” bèn A Di Đà Phật,
trở về nẻo chánh. A Di Đà Phật là đức
hiệu của tự tánh; niệm một câu A Di Đà Phật
là trở về tự tánh, tự tánh là thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác. Huệ Năng đại sư đă miêu tả tự
tánh: Đầu tiên là thanh tịnh, “nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”.
Thứ hai là “bất sanh, bất
diệt”. Thứ ba là “trọn
đủ vô lượng vô biên trí huệ và đức
năng, vốn tự đầy đủ”. Thứ tư
là “vốn chẳng có dao động”.
Thứ năm là chúng sanh có cảm, các Ngài có thể ứng.
Khi các Ngài ứng, “có thể sanh
ra vạn pháp”. Điều thứ năm là lợi tha.
Trong năm câu, bốn câu đầu là tự lợi, câu cuối
cùng là lợi tha, chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có ứng. Tuy ứng,
các Ngài vẫn như như bất động, đó gọi
là “trong Định thấy Phật”.
“Chư thâm tổng tŕ”, trí huệ
Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh hoàn toàn hiện tiền.
Trí huệ hiện tiền, trí huệ sống động là
phương tiện thiện xảo, vô lượng, vô biên
phương tiện thiện xảo, vẫn trụ trong Tam-ma-địa.
Ở đây, hăy chú trọng chữ Trụ. Có nghĩa là chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa trong mười pháp giới, ứng
hóa trong lục đạo, chưa hề khởi tâm động
niệm, nên gọi là “trụ
tam-ma-địa”. Chúng ta hăy nên học điều này, đấy
mới thật sự là học đến mức, học viên
măn, v́ sao? Trong động mà chẳng động, có ư nghĩa
này. Do đó, trong Phật pháp, khi đức Phật tại
thế đă dùng h́nh tṛn gọi là “pháp luân”, pháp luân có h́nh tṛn, dùng tiêu chí (logo) này, v́
chỉ có h́nh tṛn biểu thị “trong động có bất
động”. Luân cũng là h́nh tṛn, chu vi h́nh tṛn ấy là động,
tâm h́nh tṛn không động. Động là ǵ? Động là ứng
hóa, chúng sanh có cảm, Phật có ứng. Phật, Bồ Tát
có ứng th́ “nên dùng thân ǵ đắc
độ, liền hiện thân ấy”. Phật chẳng
có khởi tâm động niệm, chẳng nói “quư vị yêu
cầu ta giúp quư vị, ta phải nên giúp quư vị”, chẳng
khởi ư niệm ấy. Nếu động ư niệm ấy,
tức là phàm phu, chẳng phải là Phật, Ngài chẳng khởi
tâm động niệm. Thậm chí như chúng ta đă đọc
trong phần trước, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện trên thế gian, tám tướng thành đạo, trụ
thế tám mươi năm, Ngài chẳng hề khởi tâm,
động niệm, v́ sao? Ngài trụ trong tam-ma-địa.
Chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm, mà biểu diễn
cho chúng ta suốt tám mươi năm, biểu diễn như
thế nào? Thí nghiệm với nước của ông Giang Bổn
Thắng đă biểu diễn, chứng tỏ đạo
lư này. Nước có khởi tâm động niệm hay không?
Chẳng có. V́ sao chúng ta đối với nó bằng một
thiện niệm, nó hiển thị cấu trúc kết tinh đẹp
đẽ như vậy? Chúng ta khởi ác niệm đối
với nó, nó hiển thị cấu trúc kết tinh xấu xí
ngần ấy, thiên biến vạn hóa! Một người
làm thí nghiệm, hằng ngày làm thí nghiệm, thí nghiệm suốt
mười năm, chẳng t́m được hai cấu trúc
kết tinh giống nhau, đạo lư là như thế đó.
V́ thế, thoạt đầu tôi tiếp xúc đoạn kinh
văn này, nghĩ chẳng ra, sau này bỗng nghĩ đến
thuở nhỏ chơi kính vạn hoa, [thuở ấy, kính vạn
hoa] chẳng được đẹp đẽ như thế,
hiện thời làm kính vạn hoa rất xinh đẹp. Quư
vị thấy [bên trong] kính vạn hoa là mấy mảnh vụn,
màu sắc khác nhau. Quư vị xoay chuyển, chuyển suốt
một tuần, suốt một tháng, chẳng có hai mẫu
hoa giống nhau, mỗi mẫu hoa đều hết sức
đẹp đẽ, đạo lư là như thế đó. Ngay
cả kính vạn hoa cũng hiển thị đạo lư
sau đây: “Tự tánh vốn đầy
đủ”. Thật vậy, chẳng giả!
Học
Phật nhằm mục tiêu ǵ? Trở về tự tánh. Chúng
ta từ tự tánh lưu lộ, cuối cùng lại trở
về tự tánh là đúng. Hoàn Nguyên Quán đă giảng Lư và
Sự này rất rơ ràng, rất rành rọt. Đó là vấn
đề cao tột nhất trong giới học thuật
khoa học và triết học hiện đại. Vũ trụ
do đâu mà có? Sanh mạng do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Măi
cho đến hiện thời chẳng thể kết luận
chắc chắn được, những đường lối
lư luận do các vị đại triết học gia hoặc
đại khoa học gia nói ra chẳng thể khiến cho người
nghe tâm phục khẩu phục, do nguyên nhân ǵ? Nguyên nhân là họ
chẳng thấy tự tánh! Nói chung, họ dựa vào trí tưởng
tượng, cậy vào suy lường, [những điều
họ đưa ra] cách biệt sự thật rất xa, chẳng
thể thuyết phục kẻ khác được! Đức
Phật đă trông thấy, v́ sao đức Phật thấy?
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đă
buông xuống, bèn thấy! V́ sao các nhà khoa học và triết
học chẳng thể nói hoàn toàn? Họ chẳng buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, họ
giống hệt như chúng ta, cậy vào các dụng cụ
tinh vi để quan sát. Trong kinh điển, đức Phật
đă nói rất hay, chúng ta dùng phân biệt, chấp trước,
dùng cái tâm ấy, tức là dùng A Lại Da, dùng phân biệt, chấp
trước. Đặc biệt là cái tâm phân biệt, tức
thức thứ sáu (ư thức) có công năng hết sức to.
Trong Bách Pháp, nó (ư thức) tương ứng với năm
mươi mốt Tâm Sở, chẳng có ǵ không tương ứng.
Đức Phật nói, đối ngoại, nó có thể duyên
đến vũ trụ, nó có năng lực ấy. Đối
nội, nó có thể duyên đến A Lại Da. Hai câu này của
đức Phật nay đă được khoa học hiện
đại chứng minh. Đức Phật nói nó chẳng
thể duyên tự tánh, câu này cũng được chứng
tỏ, đúng là nó không thể duyên đến tự tánh.
V́ sao? Đối với tự tánh, ắt phải buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, sẽ
liền thấy tánh. V́ sao mê? Do vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, nên quư vị mê. Nay quư vị buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, liền
giác ngộ, liền kiến tánh. Do các khoa học gia, triết
học gia chẳng buông vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, nên họ vĩnh viễn chẳng thấy
chân thật, trong Phật pháp gọi [sự chân thật ấy]
là “Thật Tướng của
các pháp”, tức là họ chẳng thấy chân tướng
của hết thảy các pháp. V́ lẽ đó, Phật pháp
trở thành triết học tột đỉnh, khoa học
tột đỉnh, đạo lư ở chỗ này! Chúng ta
cũng nên đem tin tức này truyền đạt cho những
nhà khoa học trên khắp thế giới biết tới:
“Hy vọng quư vị giải quyết mục tiêu chung cực.
Vạn pháp trong vũ trụ rốt cuộc là chuyện
như thế nào [đă được giảng rơ] trong kinh
Phật”, hy vọng họ sẽ quay lại t́m kiếm
trong kinh Phật, họ sẽ t́m được.
Các
tổng tŕ sâu vốn sẵn có trong tự tánh, chính là trí huệ
Bát Nhă sẵn có trong tự tánh. Trụ tam-ma-địa là tánh
định trong tự tánh. Đối với chuyện thành
Phật th́ thành Phật chính là bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ. Quư vị thấy trong Định,
thường cúng vô lượng vô biên hết thảy chư
Phật, đó là [t́nh h́nh] trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Đức Phật dạy: Người
trong thế giới Cực Lạc hằng ngày đến các
thế giới phương khác cúng Phật, nghe pháp. Kinh Di Đà
cho biết mỗi ngày họ đến cúng dường bao
nhiêu đức Phật? Mười vạn ức! Trong chú
giải, cổ đại đức cho biết: “Mười vạn ức” là
biểu thị pháp. V́ sao nói là “mười
vạn ức”? Trong kinh, đức Phật nói Tây Phương
Cực Lạc thế giới cách thế giới Sa Bà chúng
ta mười vạn ức cơi Phật, nơi ấy là thế
giới Cực Lạc. Sở dĩ đức Phật nói
như vậy, v́ biết chúng ta rất lưu luyến thế
giới Sa Bà, ở nơi này, người nhà, quyến thuộc,
bạn bè rất đông, do ta một đi không trở lại,
nên rất lưu luyến họ! T́nh cảm con người
đặt ở nơi đây, Thích Ca Mâu Ni Phật do biết
rơ, nên nói ǵ? Khoảng cách là “mười
vạn ức cơi Phật”. Nếu quư vị đến thế
giới Cực Lạc, mỗi ngày đều có thể đến
xem người nhà, quyến thuộc của quư vị, có ư
nghĩa như vậy đó. Trên thực tế, không phải
chỉ như vậy. Mười vạn ức quá ít, quư vị
thấy ở đây nói là “vô lượng,
vô biên”, há chỉ mười vạn ức! Do đó,
trong kinh văn, chúng ta nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng rất
lọt tai, Ngài luôn dẫn dụ chúng ta đến thế
giới Cực Lạc, tốt lắm, hằng ngày đều
có thể quay về xem, muốn lúc nào trở về xem bèn đến
ngay lúc ấy, rất thuận tiện, có ư nghĩa như vậy
đó. Nói “mười vạn ức”, trên thực tế là vô
lượng vô biên hết thảy chư Phật. Quư vị
thấy hoạt động to lớn ngần ấy, đến
mười phương thế giới, hóa thân đến!
Họ có thể hóa vô lượng vô biên thân, vô lượng
vô biên chư Phật giảng kinh, thuyết pháp bên kia, họ
đều tới đó, đích thân nghe, có bản lănh ấy,
phân thân mà! Cúng Phật là tu phước, nghe kinh là tu huệ,
phước huệ song tu, nên đến thế giới Cực
Lạc thành tựu rất mau, đạo lư ở chỗ này.
Ở nơi đây, chúng ta tu phước và tu huệ đều
hết sức khó khăn, chỉ có tạo nghiệp rất
dễ dàng. Tu phước và tu huệ đều chẳng dễ
dàng. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng thể tạo nghiệp nữa, chuyện quư vị
làm mỗi ngày đều là tu phước, tu huệ. Phước
huệ thảy đều tương ứng với tự
tánh, chẳng ĺa tự tánh. Quư vị thấy “bất thất định ư” (chẳng
mất định ư), tuy hoạt động như vậy,
họ vẫn chẳng khởi tâm động niệm y như
cũ. “Bất thất định
ư” chính là không khởi tâm, không động niệm, tuyệt
lắm thay! V́ thế, chúng ta đọc những câu kinh văn
này, biết chư Phật Như Lai chẳng nói dối. Câu
nào cũng đều là chân thật, Như Lai là thật ngữ,
chân ngữ, như ngữ, chúng ta chân thành ngưỡng vọng,
tin tưởng, ngưỡng mộ, tin sâu chẳng ngờ,
há lẽ nào chẳng văng sanh? Cơ hội này trăm ngàn vạn
kiếp khó gặp gỡ, nay đă gặp. Cư sĩ Bành Tế
Thanh nói nhân duyên rất khó gặp gỡ, ông ta nói “một ngày hiếm có khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”. Ngày nay chúng
ta đă gặp, nếu đời này chẳng văng sanh Tịnh
Độ, quư vị thật sự sai lầm mất rồi!
“Chân Giải viết” (sách Chân
Giải chép), đây là pháp sư Đạo Ẩn của Nhật
Bản nói, “Phổ đẳng
tam-muội, viết thâm định môn. Thử tam-muội Di
Đà trí nguyện chỉ sở thành” (Phổ đẳng
tam-muội gọi là “định môn sâu xa”. Môn tam-muội này
do trí nguyện của Phật Di Đà thành tựu). Do trí huệ
và bổn nguyện của A Di Đà Phật thành tựu. “Thậm thâm vô nhai để, cố
vân thâm Thiền Định” (rất sâu không ngằn đáy,
nên gọi là “Thiền Định sâu”). Nó khởi tác dụng,
“tất đổ châu biến,
thị kỳ nghiệp dụng” (ắt thấy trọn
khắp, đó là nghiệp dụng của nó). Tiếp đó,
lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có giải thích, chúng ta hăy
đọc tiếp: “Do nguyện
văn khả kiến, hội trung chư Bồ Tát giai mông
Di Đà trí nguyện chi lực, nhân đắc văn Di
Đà danh hiệu, giai đắc phổ đẳng tam-muội
đẳng thậm thâm Thiền Định, cố mông nguyện
lực gia tŕ, Định trung cúng vô lượng chư Phật.
Kư văng cúng Phật, tất định kiến Phật, cố
vân tất đổ vô lượng chư Phật dă” (Từ
nguyện văn, có thể thấy các vị Bồ Tát trong
hội đều nương nhờ sức trí nguyện của
Phật Di Đà. Do được nghe danh hiệu của Phật
Di Đà, nên đều đắc Thiền Định rất
sâu như phổ đẳng tam-muội v.v… V́ thế, được
nguyện lực gia tŕ, trong Định cúng dường vô
lượng chư Phật. Do đă đến cúng Phật,
nhất định là thấy Phật, v́ thế nói là “ắt
thấy vô lượng chư Phật”). Quư vị cúng dường
Phật, đương nhiên thấy Phật. Lại c̣n chẳng
phải là thấy một hai vị Phật! Trong thế
gian này, chúng ta đáng thương quá, thấy một vị
thiện tri thức c̣n chẳng dễ gặp. Vị thiện
tri thức ấy là thật hay giả chẳng biết, muốn
thấy một vị mà trọn chẳng thấy. Đến
thế giới Cực Lạc, mỗi ngày thấy vô lượng
vô biên chư Phật, phước báo ấy to cỡ nào! Tu phước
báo làm đế vương trong nhân gian, làm thiên vương
trên cơi trời, hoặc làm bậc đại phú trưởng
giả trong cơi trời người, có của cải ngàn ức
vạn ức, phước báo to lớn ngần ấy do tu
từ đâu? Toàn là tu trong Phật môn, ĺa khỏi Phật môn,
làm sao quư vị có thể tu phước báo to lớn ngần
ấy! V́ thế, ngạn ngữ mới nói: “Người học Phật có
phước báo”. Ư nghĩa trong câu nói ấy rất sâu, rất
dài, thật sự có phước báo. Trong thế gian này, nhân
gian, cơi trời, đúng là chẳng phải bất cứ ai
cũng có thể làm đế vương! Chẳng có đại
phước báo, làm sao kẻ ấy có địa vị đó?
Trong xă hội, địa vị của quư vị vượt
trỗi phước báo, quư vị sẽ chẳng ngồi yên
nơi địa vị ấy được! Trước
khi tôi học Phật, từng phục vụ trong quân đội,
tôi thấy một vị tướng quân, từ Thiếu Tướng
được thăng lên Trung Tướng. Văn kiện
đă phê chuẩn rồi, c̣n chưa công bố, nhưng tin
tức từ những người thân cận của cấp
trên đă lộ ra, chúc mừng người ấy: “Ông đă
lên Trung Tướng”. Ông ta nghe tin, hết sức sung sướng,
mời mọc thân thích, bạn bè đến dùng cơm. Bữa
cơm ấy c̣n chưa ăn xong, ông ta chết gục trên
bàn, chết ngay trên bàn ăn. V́ thế, người ta có thể
đoán biết ông ta chẳng có vận mạng ấy. Quư vị
thấy đó, một hai ngôi sao liền đè chết tươi.
Thật đấy, chẳng giả đâu! Trong mạng chẳng
có tài sản to lớn như vậy, đột nhiên phát tài,
sẽ chuốc lấy tai họa. Chẳng mắc bệnh
nặng th́ cũng là chết bất ngờ, chết v́ tai nạn,
do quư vị chẳng có số hưởng!
V́
thế, người thật sự hiểu được
đạo lư này, tâm b́nh lặng, điềm tĩnh, thật
sự có thể “chẳng tranh
với người, chẳng cầu nơi đời”,
vui sướng lắm, hạnh phúc lắm! V́ thế, tuyệt
đối chẳng phải là cạnh tranh bèn có thể
tranh được. Nếu thật sự có thể tranh được,
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng cạnh tranh, Khổng lăo phu tử
cũng cạnh tranh, các Ngài đă từng nói, chẳng tranh được!
Đă tranh không được th́ ta cần ǵ phải bận
ḷng? Chẳng thà không tranh! V́ thế, xă hội hiện thời
đề xướng cạnh tranh, hai chữ ấy hại
chết người, hai chữ ấy khiến xă hội loạn
lạc! Kẻ tranh được đều là v́ trong mạng
sẵn có. Trong mạng chẳng có, nghĩ bất cứ phương
pháp ǵ để tranh, đều chẳng tranh được!
Điều này chẳng sai tí nào! Quan sát cẩn thận hết
thảy mọi người, mọi sự, mọi vật
chung quanh ta, quư vị đều có thể thấy đạo
lư này, chẳng giả tí nào! Do đó, một miếng ăn,
một hớp uống, không ǵ chẳng được định
sẵn! Trong mạng đă định bèn có, trong mạng chẳng
có, sẽ chẳng thể cầu được! Nhưng
trong Phật môn đă nói: “Trong
cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Cái “có cầu ắt ứng” là thứ
mà trong mạng quư vị chẳng có. Thứ trong mạng quư
vị chẳng có bèn có thể cầu từ trong Phật môn.
Chẳng phải là Phật, Bồ Tát ban cho quư vị! Quư vị
phải hiểu: Phật, Bồ Tát dạy quư vị tu nhân,
quư vị có thể tu nhân, quả báo liền hiện tiền.
Phật, Bồ Tát dạy quư vị như vậy, chẳng
phải là giả, chẳng phải là mê tín. Người phát
tài th́ tài do đâu mà có? Tài do bố thí mà có, càng thí càng nhiều.
Kẻ chẳng chịu tu tài bố thí, tiền tài trong mạng
hữu hạn. Bố thí vô hạn lượng sẽ đạt
được chẳng hạn lượng, cũng chẳng
giả tí nào. Pháp bố thí được thông minh trí huệ,
vô úy bố thí được khỏe mạnh, sống lâu. Trong
kinh giáo đă nói những điều này rất rơ ràng, rất
minh bạch. Quư vị có thể tu ba thứ bố thí ấy,
ba thứ quả báo quư vị đều đạt được.
Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc, không tu, không đắc,
quư vị phải thật sự hành.
V́
thế, đối với các vị Bồ Tát trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới, quư vị hăy quan sát cẩn
thận: Thế giới ấy rất đặc thù, thế
giới ấy chẳng phải là một quốc gia. Tây Phương
Cực Lạc thế giới chẳng có quốc vương,
chẳng có tổng thống, cũng chẳng nói chỗ nào
có thị trưởng đô thành chi cả, đều chẳng
có! Thế giới ấy rất ư là lớn, to hơn địa
cầu của chúng ta rất nhiều. Trên tinh cầu ấy,
chỉ có hai hạng người: Một là thầy, hai là
tṛ. A Di Đà Phật là thầy, nhũng người khác đều
là tṛ. Nói rơ điều ǵ? Phật giáo là giáo học. Quả
thật, có thể nói Tây Phương Cực Lạc thế
giới là một đại học Phật giáo do hết thảy
chư Phật chung sức tạo lập, A Di Đà Phật
là hiệu trưởng, mười phương chư Phật
Như Lai đều là giáo sư trong thế giới Cực
Lạc. Học sinh thường được bổn nguyện
và oai thần của Phật Di Đà gia tŕ, ai nấy đều
là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí là từ Thất
Địa trở lên. Quư vị thấy trong thế giới
Cực Lạc lên lớp dễ dàng. Chư Phật đến
đó, hoặc quư vị muốn đến theo học với
các Ngài trong các thế giới chư Phật ở phương
khác, rất đơn giản, mỗi ngày đều có thể
đi, chẳng cần đến phương tiện giao thông,
chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có máy bay, có xe
hơi, chẳng nghe thấy, họ đi bằng cách nào? Ư
niệm vừa nghĩ th́ đă đến nơi rồi. V́
sao? Thế giới Cực Lạc chẳng có thời gian, chẳng
có không gian. Chẳng có không gian là chẳng có khoảng cách, dẫu
quốc độ xa xôi cách mấy, vừa động niệm
bèn ở ngay trước mặt, đă đến nơi rồi!
Do chẳng có thời gian, nên họ có thể trở lại
quá khứ, mà cũng có thể tiến nhập vị lai, mấy
ngàn năm hay mấy vạn năm trong vị lai đều
có thể tiến nhập. Quá khứ mấy ngàn năm, mấy
vạn năm đều có thể quay trở lại, trở
lại được, đều có thể đến hiện
trường, thù thắng dường ấy! Hăy nhớ, có
đôi chút tham luyến thế giới này, quư vị sẽ
chẳng đi được! Thế gian này rất đáng
sợ, thứ ǵ cũng đều giống như đất
sét, dính một chút chẳng bỏ đi được, đời
đời kiếp kiếp phải luân hồi, đáng thương
thay! [Chúng sanh trong thế gian này] là những kẻ đáng thương
xót! Phải đoạn sạch tham, sân, si, mạn, nghi, những
thứ ấy là chướng ngại, là giả, chẳng
thật, đều do hiểu lầm tạo thành, chẳng
thật. Thấy Phật là đại phước báo, phước
huệ đầy đủ.
“Hựu Bát Châu kinh vân: Thị Bồ
Tát bất tŕ Thiên Nhăn triệt thị, bất tŕ Thiên Nhĩ
triệt thính, bất tŕ Thần Túc đáo kỳ Phật
sát, bất ư thử gian chung, sanh bỉ gian, tiện
ư thử tọa kiến chi” (Lại nữa, kinh Bát
Châu nói: “Các vị Bồ Tát ấy không dùng Thiên Nhăn mà thấy
thấu suốt, chẳng dùng Thiên Nhĩ mà nghe thấu triệt,
chẳng dùng Thần Túc mà đến cơi Phật ấy, chẳng
chết nơi cơi này, sanh sang cơi kia, mà là ngồi ở nơi
đây trông thấy”). Chúng ta xem trước mấy câu do đức
Thế Tôn đă nói trong kinh Ban Châu. “Thị Bồ Tát” là các vị Bồ Tát trong thế
giới Cực Lạc, các Ngài chẳng cần dùng Thiên Nhăn
mà thấy thấu suốt.“Triệt
thị” (徹視): “Triệt” là triệt để,
chẳng có ǵ không nh́n thấy, mười phương sát
độ vi trần thế giới các Ngài đều thấy,
chẳng cần dùng Thiên Nhăn. Thật ra là dùng ǵ? Các Ngài dùng
Phật Nhăn để thấy, các Ngài đều đă thành
Phật, A Duy Việt Trí Bồ Tát là Phật. Kinh Đại
Thừa nói “ngũ nhăn viên minh”,
có thể thấy thấu triệt, nghe thấu suốt. Dao
động tột bậc vi tế, các Ngài đều cảm
nhận rất rơ ràng. Những dao động vi tế ấy
là nguyên khởi của vũ trụ. Di Lặc đă nói “trong một cái khảy ngón tay có ba
trăm hai mươi triệu niệm”, một cái khảy
ngón tay đấy nhé! Khoa học hiện thời dùng giây làm
đơn vị, trong một giây có bao nhiêu niệm? Một
ngàn sáu trăm triệu, quư vị nói xem có vi tế lắm
hay không? Các Ngài có thể thấy, có thể nghe! Chẳng cần
dùng Thần Túc Thông, A La Hán đều dùng Thần Túc Thông, [các
vị Bồ Tát trong cơi Cực Lạc] không cần. V́ sao không
cần? Tôi vừa mới nói đấy thôi, thời gian và
không gian chẳng có! Thời gian và không gian chẳng có, nên
trong Tam Thời Hệ Niệm, thiền sư Trung Phong đă
nói: “Phương này chính là Tịnh
Độ”. Tịnh Độ là thế giới Cực Lạc,
cách chúng ta mười vạn ức cơi Phật, ở chỗ
nào? Ở ngay nơi đây! “Không gian chẳng có” tức là
chẳng có xa, gần, mười phương cơi nước
của chư Phật ở chỗ nào? Ở ngay trong hiện
tại. Người nào có thể thấy? Người minh tâm
kiến tánh trông thấy, người niệm Phật đến
Lư nhất tâm bất loạn trông thấy. Lư nhất tâm bất
loạn là minh tâm kiến tánh, cũng là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” như trong tựa đề kinh đă nói th́ mới có
thể thấy, chứ “thanh tịnh, b́nh đẳng” chưa
thấy! Phía sau [thanh tịnh và b́nh đẳng] phải có
Giác, giác ấy là đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh. Người ấy đă thấy, toàn bộ
các chiều không gian [sai khác] chẳng c̣n nữa! Chẳng có
một pháp nào không do tự tánh biến. Chỉ cần quư vị
kiến tánh, quư vị t́m được căn nguyên của
hết thảy các pháp, sẽ đắc đại tự
tại trong hết thảy các pháp, chẳng có chút chướng
ngại nào. V́ thế, chẳng chết nơi đây, sanh nơi
kia, A La Hán là như vậy. Diệt độ ở nơi
này, sanh ở nơi kia, [đó là] linh hồn đầu thai!
Chết ở nơi này, lại đầu thai để
sanh nơi kia, chỗ này chết, chỗ kia sanh. Bồ Tát
trong cơi Cực Lạc chẳng cần, chẳng có lắm nỗi
phiền phức như vậy, ngồi ở nơi đây,
mà thứ ǵ cũng đều hiểu rơ ràng, chẳng có ǵ
không hiểu rơ. Đó là hoàn cảnh trong thế giới Cực
Lạc.
Chúng
ta lại xem tiếp phần sau: “Phật
ngôn: Bồ Tát ư thử gian quốc độ” (Phật
dạy: “Bồ Tát trong cơi nước nơi đây”). Thích Ca
Mâu Ni Phật bảo chúng ta: Những vị Bồ Tát ấy
là ai? Chính là nói đến chúng ta, nay chúng ta vừa mới phát
Bồ Đề tâm, phát Bồ Đề tâm là Bồ Tát; nhưng
chính ḿnh phải khiêm hư một chút, chớ nên rất ngạo
mạn. Quư vị vừa là Sơ Phát Tâm Bồ Tát, hễ ngạo
mạn bèn chẳng c̣n là Bồ Tát nữa, lại biến thành
phàm phu. Quư vị thấy “phát Bồ
Đề tâm, một bề chuyên niệm”, quư vị ở trong cơi nước
nơi đây “niệm A Di Đà
Phật, chuyên niệm cố đắc kiến chi” (niệm
A Di Đà Phật, do chuyên niệm nên trông thấy). Nói thật
ra, A Di Đà Phật thấy chúng ta, chúng ta chẳng thấy
Ngài. V́ sao Ngài thấy chúng ta? V́ tâm Ngài thanh tịnh, tâm Ngài là
thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, nên thấy chúng ta rành rẽ,
rơ rệt. Chúng ta niệm Ngài, v́ sao chẳng thấy Ngài? Trong
tâm chúng ta vẫn c̣n vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, nên tuy chúng ta niệm Ngài, vẫn chẳng có cách
nào thấy Ngài. Đến lúc nào mới có thể thấy
Ngài? Chúng ta có thể buông phân biệt, chấp trước
xuống liền trông thấy. Chẳng cần vọng tưởng.
Nếu buông vọng tưởng xuống, sẽ dung hợp
thành một Thể với Phật. Chỉ cần buông phân
biệt, chấp trước xuống, quư vị liền thấy
A Di Đà Phật. V́ thế, chỉ cần chúng ta chuyên niệm.
Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói rất rơ ràng: “Nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai, nhất định thấy
Phật”. “Hiện tiền” là hiện tại, trong đời
này thấy A Di Đà Phật, trong tương lai sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, gặp mặt
hằng ngày, vĩnh viễn sống cùng nhau, trong tâm quyết
định chẳng dấy lên phiền năo, đó là thế
giới thanh tịnh, đó là thế giới Cực Lạc.
Tiếp
theo đó: “Tức vấn”
(liền hỏi), chẳng phải là quư vị đă thấy
rồi hay sao? Quư vị hỏi A Di Đà Phật, “tŕ hà pháp đắc sanh thử quốc?”
(tŕ pháp ǵ bèn được sanh về cơi này), tu pháp môn ǵ mới
có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới?
“A Di Đà Phật báo ngôn: Dục
lai sanh giả, đương niệm ngă danh” (A Di Đà
Phật bảo: “Kẻ muốn sanh về đó, hăy nên niệm
danh hiệu ta”). Chẳng phải là quư vị muốn đến
đó ư? Niệm danh hiệu A Di Đà Phật có thể
đến đó, dạy chúng ta tŕ danh niệm Phật. Nếu
quư vị thật sự muốn văng sanh, hăy dẹp trừ
tạp niệm trong tâm quư vị. Nếu nay trong tâm trừ ư
niệm A Di Đà Phật ra, niệm ǵ cũng đều chẳng
có, khi nào quư vị có thể văng sanh? Một ngày bèn có thể
văng sanh. Kinh Di Đà nói “hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày”
cho đến “hoặc bảy ngày”.
Cũng có thể nói là khi nào quư vị niệm đến mức
trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật
ra, ư niệm ǵ cũng đều chẳng có, khi ấy là lúc
quư vị sanh về thế giới Cực Lạc. Chẳng
khó! Ta bèn nghĩ, Căn Bản Giới ta c̣n chưa tu, làm
sao có thể văng sanh cho được? Có thể! V́ sao có thể?
Đạo Cộng Giới! Trong một câu A Di Đà Phật,
Giới, Định, Huệ thảy đều đầy
đủ. Quư vị nghĩ xem, trong tâm quư vị toàn là A Di Đà
Phật, có c̣n tạo giết, trộm, dâm nữa chăng?
Chẳng thể nào! Gọi là Đạo Cộng Giới, một
câu A Di Đà Phật, pháp ǵ cũng đều viên măn. Đạo
lư là như vậy đó.
Nay
lại khuyên quư vị phải đặt vững ba căn
là v́ lẽ nào? Hiện thời, quư vị chưa đạt
được công phu ấy, chưa buông xuống được!
Quư vị không buông xuống được th́ phải giữ
quy củ. Ba căn cội ấy là quy củ căn bản,
nhất định phải giữ cho tốt. Nếu trong
tâm quư vị nhất tâm niệm Phật, chỉ có một câu
Phật hiệu, vậy th́ thứ ǵ quư
vị cũng chẳng cần! Bởi lẽ đó, công phu
tốt đẹp, một ngày bèn thành công. Nghiệp chướng
sâu nặng, khẳng định bảy ngày bèn thành công. Từ
vô thỉ kiếp đến nay, nghiệp chướng ǵ đi
nữa, một câu A Di Đà Phật hoàn toàn tiêu sạch. Vấn
đề là quư vị có thật sự hành hay không? Thật
sự hành sẽ thật sự hữu hiệu, quyết định
chẳng giả. Do đó, tai nạn xảy đến, có
thể văng sanh hay không? Có thể! Một tí hoài nghi cũng chẳng
có! Quư vị hăy ngẫm xem, do công phu một ngày bèn có thể
văng sanh, quư vị có chịu làm hay không? V́ sao muốn làm, nhưng
lại chẳng làm được? Chẳng làm được
là ǵ? Quư vị chẳng đúng pháp. Nếu niệm Phật
mà chẳng hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, quư vị
có thể đạt được chẳng gián đoạn.
Quư vị có hoài nghi, c̣n có xen tạp, công phu của quư vị
chẳng thuần, không phải là Phật hiệu chẳng linh,
mà vấn đề xuất hiện từ chính quư vị, chẳng
do phương pháp. Đạo lư và phương pháp vĩnh hằng
bất biến, quư vị phải hiểu rơ ràng, minh bạch,
chuyện này quá quan trọng, là mấu chốt thành bại
trong một đời này!
“Thị dĩ Niệm Phật tam-muội,
xưng vi Bảo Vương tam-muội” (Do vậy, Niệm
Phật tam-muội được gọi là Bảo Vương
tam-muội), trong kinh nói “Niệm
Phật tam-muội, tam-muội trung vương” (Niệm
Phật tam-muội là vua trong các tam-muội). Đó là Bảo
Vương tam-muội. Pháp môn Niệm Phật thù thắng,
chẳng có pháp môn nào có thể sánh bằng, thích hợp khắp
ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn và độn
căn. Thiền tiếp dẫn bậc thượng thượng
căn, Tịnh Độ tiếp dẫn, thâu nhiếp từ
thượng thượng căn đến hạ hạ căn,
chẳng như Thiền. Thiền chỉ thâu nhiếp thượng
thượng căn, chứ thượng, trung, hạ căn
đều chẳng có phần. Tịnh Tông chẳng như vậy.
Chỉ cần quư vị chịu niệm, giống như
trong kinh này đă dạy, quư vị thấy ba bậc văng
sanh đều là cùng một câu nói: “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”.
Chẳng tu pháp môn Tịnh Độ, mà tu các pháp môn khác, nhưng
khi lâm chung, chính ḿnh đem công đức đă tu hành hồi
hướng cầu sanh Tịnh Độ, cũng có thể
văng sanh, pháp môn này to tát quá! Chẳng có phân biệt! Từ câu
kinh văn này, chúng ta có thể thấu hiểu, tu các tôn giáo
khác có văng sanh được không? Cơ Đốc giáo, Hồi
giáo, Ấn Độ giáo có thể văng sanh hay không? Có thể!
Cùng một đạo lư! Quư vị đem công đức
đă tu hành hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ,
bèn có thể văng sanh. Nho gia th́ sao? Ngũ Luân, Ngũ Thường,
Tứ Duy, Bát Đức đều tu rất khá, ta đem công
đức ấy hồi hướng niệm Phật cầu
văng sanh có được không? Được chứ! Pháp môn
này quá lớn! Chẳng có bất cứ điều kiện
ǵ, chỉ cần là hết thảy thiện pháp, chẳng có
một ai không văng sanh! Thậm chí làm ác pháp như thế nào
đi nữa, chỉ cần quư vị buông hết ác niệm
xuống, thật sự sám hối, sửa đổi tu thiện,
một niệm hay mười niệm vẫn văng sanh. “Buông dao đồ tể xuống,
ngay lập tức thành Phật”, người ấy là đại
thiện nhân, là thượng thiện, triệt để sám
hối. Con người tánh vốn lành, buông xuống tập
tánh, bổn thiện hiện tiền. Bổn tánh hiện tiền,
lẽ nào người ấy chẳng văng sanh? Người ấy
vốn là Phật, lẽ nào không văng sanh?
V́
thế, chúng ta hiểu rơ ràng, rành rẽ đạo lư này th́
mới có thể đoạn hết hoài nghi, mối nghi
trong tham, sân, si, mạn, nghi liền đoạn hết, tín
tâm vẹn mười! Nếu quư vị chẳng hiểu rơ
ràng, rành rẽ đạo lư, quả thật, nỗi nghi sẽ
sanh ra chướng ngại rất lớn. Do đó, đức
Phật xếp chữ Nghi này vào loại Căn Bản phiền
năo; quư vị thấy sau tham, sân, si, mạn là nghi. Phiền năo
là ǵ? Chướng ngại! Chướng ngại quư vị kiến
tánh, chướng ngại quư vị thành Phật, chướng
ngại quư vị khai ngộ, chướng ngại quư vị
niệm Phật văng sanh, quư vị nói xem có phiền toái lắm
hay chăng? V́ thế, chúng ta học Phật phải dụng
công trong lúc b́nh thường, tức là “phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”.
Bồ Đề tâm là tâm ǵ? Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi, khởi tâm động niệm quyết định
tương ứng với những điều ấy, quư vị
sẽ là “trụ Bồ Đề
tâm”. Trái nghịch những thứ ấy, Bồ Đề
tâm của quư vị chẳng phát ra được! Chẳng
phát Bồ Đề tâm, niệm Phật sẽ chẳng thể
văng sanh, niệm Phật chỉ là gieo căn lành! Thật sự
niệm Phật văng sanh, Bồ Đề tâm nhất định
trọn đủ, chớ nên không hiểu đạo lư này.
Biết pháp môn này thù thắng ở chỗ nào? Thật sự
đảm bảo chúng ta thành tựu viên măn trong một đời
này! V́ thế, dũng mănh tinh tấn chẳng có ǵ khác! Dũng
mănh tinh tấn là triệt để buông xuống, khởi tâm
động niệm chẳng v́ chính ḿnh nữa! V́ chính ḿnh là
ǵ? V́ chính ḿnh tức là quư vị tham luyến luân hồi, vẫn
chẳng nỡ rời khỏi lục đạo luân hồi,
quư vị v́ bản thân!
Chúng
ta muốn sanh về Tây Phương Tịnh Độ, đầu
tiên là phải buông chính ḿnh xuống, chẳng cần cái thân
này, chẳng c̣n chấp trước cái thân này là ta nữa,
phải buông những thứ ấy xuống. Chẳng buông những
thứ ấy xuống, đời đời kiếp kiếp
niệm Phật vẫn chẳng văng sanh, v́ nguyên nhân nào? Chính
v́ đạo lư này: Đời đời kiếp kiếp chẳng
chịu bỏ Ngă! Chỉ cần có Ngă, cả một đống
lớn phiền toái ùa tới, người nhà, quyến thuộc,
đất đai, nhà cửa, tài sản của ta, phiền
toái lắm! Toàn là của quư vị, nên thứ ǵ cũng đều
chẳng bỏ được, những thứ ấy có
mang theo được hay không? Quư vị hăy ngẫm xem, ngay
cả cái thân c̣n chẳng mang theo được, huống hồ
vật ngoài thân? Do đó, người niệm Phật thường
phải có tâm thái: Ta đến thế gian này là lữ du, nơi
ta trụ trong thế gian này là quán trọ, sau hai ngày bèn rời
đi, thứ ǵ cũng chẳng phải là của ta, ta chẳng
mảy may lưu luyến nó. Ta trụ một ngày, bèn dùng một
ngày, dùng rất tự tại, dùng rất thoải mái, hôm
sau ra đi, chẳng có ư niệm ǵ cả! Thật vậy, đến
trụ trong khách sạn, lữ du, đến nơi đây
văn cảnh, khảo sát, xem xét thế giới này, tăng trưởng
trí huệ, tăng trưởng tam-muội. Thấy thế
giới này t́nh trạng ra sao, quư vị bèn hiểu, đó là
tăng trưởng trí huệ. Sau khi đă thấy, như
như bất động, đó là công phu định lực.
Chẳng có thứ ǵ muốn chiếm hữu, chẳng có thứ
ǵ suy lường, cũng chẳng có thứ ǵ mong khống
chế, ư niệm ǵ cũng đều chẳng có, người
ấy văng sanh rất dễ dàng, trong Phật môn, người
ấy được gọi là “người
có đại thiện căn”. Cái này cũng muốn, cái
kia cũng muốn, người ấy chẳng có thiện căn,
chẳng có phước đức. Trong kinh giáo Đại Thừa,
đức Phật đă khai thị như vậy, đâu đâu
cũng đều có thể thấy.
V́
thế, ở đây, cụ Niệm Tổ nói Niệm Phật
tam-muội là Bảo Vương tam-muội, “thậm thâm Thiền Định,
tất đổ chư Phật, đô tiêu quy Niệm Phật
tam-muội dă” (Thiền Định rất sâu, ắt thấy
chư Phật, đều quy về, ḥa lẫn trong Niệm
Phật tam-muội). Dẫu nói nhiều đến mấy đi
nữa, vẫn chẳng ĺa khỏi Niệm Phật, v́ sao? Niệm
Phật là căn bản của căn bản. Trong kinh Đại
Thừa, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng. Tâm hiện, thức biến”. Đức
Phật đă dạy chúng ta tổng cương lănh, tổng
nguyên tắc, nên niệm Phật bèn thành Phật, sanh từ
tâm tưởng mà! Ta niệm Phật chẳng thành Phật,
[là v́] ta niệm Phật đă xen tạp những thứ bẩn
thỉu trong ấy. Xen tạp tự tư tự lợi,
xen tạp danh văn, lợi dưỡng, xen tạp tham,
sân, si, mạn, nên quư vị công phu chẳng đắc lực.
Nếu trong câu Phật hiệu của quư vị chẳng có
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, lẽ
đâu chẳng thành công? Đại Thế Chí Bồ Tát dạy
chúng ta “nhiếp trọn sáu
căn”, nhiếp trọn sáu căn là chẳng xen tạp,
không hoài nghi. Không hoài nghi là nhiếp ư căn, không xen tạp
là nhiếp năm căn trước, tức mắt, tai, mũi,
lưỡi và thân. Công phu tinh thuần, hiệu quả chẳng
thể nghĩ bàn! Một niệm tương ứng một
niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật. Niệm Phật là niệm như thế đó!
Nhà Phật trọng thực chất, chẳng đặt nặng
h́nh thức, h́nh thức chẳng quan trọng! Thực chất
là ǵ? Tương ứng là thực chất, tương ứng
với thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, tương ứng
với nhiếp trọn sáu căn, tương ứng với
tịnh niệm tiếp nối, người ấy được
gọi là biết niệm, thật sự niệm Phật, biết
niệm Phật.
Do
đó, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
sau khi quư vị thật sự hiểu rơ, liền biết
thật sự dễ dàng, chẳng khó tí nào, mấu chốt
là buông xuống! V́ sao nó trở nên khó khăn, chẳng nắm
chắc như thế? Biến thành khó khăn dường ấy,
có kẻ niệm suốt đời, nhưng chẳng nắm
chắc văng sanh? Chẳng nắm chắc là nói thật, chẳng
giả. V́ sao chẳng nắm chắc? [Do] trong câu Phật hiệu
có xen tạp, có hoài nghi. Có nỗi hoài nghi “ta có thể văng
sanh hay không?” Có nỗi hoài nghi ấy! Làm thế nào để
trừ mối nghi ấy? Làm thế nào để trừ
xen tạp? Biện pháp duy nhất là nghe giáo, nghe kinh. Thích Ca
Mâu Ni Phật v́ chúng ta giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi
chín năm, nhằm dạy chúng ta đoạn nghi hoặc, đoạn
xen tạp. Kinh giáo giảng điều ǵ? Giảng rơ ràng,
minh bạch chân tướng sự thật. Quư vị cũng
thật sự hiểu rất rơ ràng, minh bạch, bèn triệt
để buông xuống. V́ sao? Biết những thứ ta ưa
thích là rỗng tuếch, đúng như kinh Đại Bát Nhă
đă nói: “Hết thảy các
pháp vô sở hữu, rốt ráo không, trọn chẳng thể
được”, ngay cả thân thể cũng trọn chẳng
thể được! Thật sự hiểu rơ, thật sự
minh bạch, cũng chẳng c̣n dấy vọng niệm, công
phu của quư vị liền thuần, niệm Phật đắc
lực, chẳng cần lâu lắc, quư vị niệm Phật
bảy ngày liền cảm thấy khác hẳn. Lại hỏi
quư vị có nắm chắc văng sanh hay không? Quư vị có thể
dám nói “ta nắm chắc văng sanh”.
“Thị cố tŕ danh công đức
bất khả tư nghị, Nhất Thừa nguyện hải
bất khả tư nghị” (V́ vậy, công đức tŕ
danh chẳng thể nghĩ bàn, Nhất Thừa nguyện hải
chẳng thể nghĩ bàn). Công đức tŕ danh là tu nhân,
Nhất Thừa nguyện hải là quả báo, nhân và quả
đều chẳng thể nghĩ bàn! Hiện thời, thế
giới có nhiều tai nạn ngần ấy, người học
Phật nghe những tin tức ấy, có bị ảnh hưởng
hay không? Người thật sự niệm Phật chẳng
bị ảnh hưởng mảy may! Nghe tin tức ấy,
người đó lập tức buông xuống, nghiêm túc niệm
Phật, biết chúng ta nay đang ở cùng một chỗ,
[ắt phải chia sẻ] cộng nghiệp! Nếu ta có phần
trong cộng nghiệp, ta cũng có thể văng sanh trong cộng
nghiệp. Đó là chuyện tốt, ra đi sớm mà! Cộng
nghiệp là mọi người gặp nạn, nhưng mỗi
người đi đến mỗi nơi khác nhau. Người
nhất tâm niệm Phật đến Tịnh Độ, đến
thế giới Cực Lạc, người tâm địa thiện
lương sanh lên trời, đến thiên đạo, kẻ
tạo tác bất thiện vào trong ba ác đạo. Mỗi người
đến một nơi khác nhau, rất công b́nh, chẳng
có mảy may oan uổng. Người học Phật hiểu
rơ ràng, minh bạch “nhân như
thế nào, quả như thế ấy”, đều bày
ra trước mặt, chính ḿnh hiểu rơ ràng, rành rẽ, như
như bất động. Hiểu rơ ràng, rành rẽ là trí huệ,
như như bất động là tam-muội, quư vị nói
có tự tại lắm hay không, có hạnh phúc lắm hay không,
viên măn dường ấy! Hôm nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta học đến đây!
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 63
[1] Thôn Trung Khang Long (1906-2008), đạo
hiệu Tâm Dự, là cao tăng thuộc Tịnh Độ
Tông Nhật Bản, là môn chủ đời thứ 86
của tổng đàn (tổng bổn sơn) Tri Ân Viện
(Chion-in Sōhonzan), từng đảm nhiệm vai tṛ
Đại Tăng Chánh, kiêm Hội Trưởng Hội
Phật Giáo Nhật Bản. Tác phẩm quan trọng
nhất của Ngài là Bàn Về Các Phương Diện Trong
Phật Giáo Dân Gian (Bukkyō minzoku no ryōiki).